| Hotline: 0983.970.780

Những cây cầu xây bằng… hoa quả

Thứ Ba 16/04/2013 , 10:11 (GMT+7)

Bà con người Tày, người Nùng cho đến người Kinh ngàn đời sống ven đôi bờ sông Thương ở Chi Lăng đều đau đáu ước mơ có một cây cầu vắt qua chứ không bao giờ dám nghĩ lại có tới ba cây cầu như hiện tại.

Bà con người Tày, người Nùng cho đến người Kinh ngàn đời sống ven đôi bờ sông Thương ở Chi Lăng đều đau đáu ước mơ có một cây cầu vắt qua chứ không bao giờ dám nghĩ lại có tới ba cây cầu như hiện tại...

>> Đổi ruộng để đem... hiến

Thượng nguồn sông Thương bắt nguồn từ đèo Sài Hồ rồi chảy về xuôi, xẻ dọc các thôn xóm trong xã Chi Lăng (huyện Chi Lăng, Lạng Sơn) thành một vách ngăn tự nhiên truyền kiếp. Không có cầu, mùa cạn dân lội bộ sang sông, mùa lũ muốn sang phải vòng lên tận Đồng Mỏ rồi ngược xuống mất cả chục cây số, người đi nương rẫy, học sinh đi học rất vất vả, hiểm nguy.

Mùa lũ, một phụ nữ đang mang thai ở thôn Quán Thanh băng qua sông bị nước nhấn chìm, bốn đứa trẻ ở thôn Đồng Đĩnh bị cuốn trôi trong đó hai bị chết, một thanh niên thôn Đồng Hóa cũng bỏ mạng vì chết đuối…

Bà con người Tày, người Nùng cho đến người Kinh ngàn đời sống ven đôi bờ sông Thương ở Chi Lăng đều đau đáu ước mơ có một cây cầu vắt qua chứ không bao giờ dám nghĩ lại có tới ba cây cầu như hiện tại.

Về Chi Lăng, được râm ran nghe kể về sự tích những cây cầu xây bằng… hoa quả, bằng bàn tay, công sức của đồng bào. Số là ông Dương Ngọc Đại, Bí thư Đảng ủy xã khi ấy cũng là một thôn dân của Quán Thanh thấm nỗi bức xúc vì bị chia cắt đôi bờ quá nên quyết định sử dụng những kiến thức về cầu phà hồi mình được đào tạo trong quân ngũ, tự thiết kế một cây cầu.



Những cây cầu dân xây trên sông Thương

Sau khi lân la hỏi thật kỹ các cụ già về những đỉnh lũ, những năm lụt lịch sử rồi ông Đại vạch ra một phương án tối ưu: xây cầu ngầm liền mố, nửa chìm, nửa nổi để nước không thể cuốn trôi: “Dưới một mét nước, dòng chảy còn hiền hòa chứ ngập trên một mét, lũ trên sông Thương kéo theo cả những bụi tre, những cây đại thụ”.

Bí thư xã đem bản thiết kế cho Bí thư thôn Lưu Văn Quý, Trưởng thôn Vi Ngọc Lưu xem, cả hai đều gật gù đồng tình rồi đồng thanh hô quyết. Chi bộ thôn ra nghị quyết làm cầu, họp toàn dân công khai chi phí dự tính 100 triệu đồng (một số tiền lớn vào năm 2007), huy động mỗi hộ đóng góp 400.000 đồng cùng 10 ngày công lao động.

Những con em Quán Thanh đi làm ăn xa cũng được người nhà vận động gây quỹ, làm cầu. Cầu xây hoàn toàn thủ công nên phải dựa vào thời điểm tháng giêng, tháng hai sông cạn nước nhưng đó cũng là những ngày tháng dân cạn tiền trong túi. Lượng tiền dân đóng góp lèo tèo, lãnh đạo thôn phát động chiến dịch ai có tiền đóng ngay, không có tiền thì chờ vào vụ na tới trả góp.

Vẫn thiếu tiền nghiêm trọng! Ông Phan Văn Lục, một người dân trong thôn, mang sổ đỏ của nhà đi cầm cố ngân hàng lấy 30 triệu đồng cho mượn (khi thôn làm đường điện một lần nữa ông Lục lại mang sổ đỏ đi cầm cố cho vay 10 triệu đồng). Lòng dân đồng thuận, khí thế lên hừng hực. Quán Thanh lập Ban chỉ đạo xây cầu do trưởng thôn làm trưởng ban để huy động toàn lực trong thôn thực hiện.

Người đi nhặt đá trên núi, kẻ lặn ngụp vớt cát dưới lòng sông. Họ đào hố bằng tay, quây bạt chắn nước rồi đổ xi măng làm mố. Họ cắt sắt buộc giằng trộn vữa đổ nhịp cầu. Người già không giúp được việc nặng cũng xăm xắn mang ra cho con cháu khi thì rổ khoai, buồng chuối, lúc ấm chè xanh, phong kẹo. Xây cầu thủ công gian nan tựa như người xưa xây thành bằng đất.

Người tính không bằng trời tính. Chưa bao giờ có mưa lũ vào tháng hai trên sông Thương nhưng vừa đổ bê tông mặt cầu được nhịp khô nhịp ướt thì lũ cuồn cuộc kéo về. Nhìn giàn giáo sập, mặt cầu võng, lắm người rưng rưng nước mắt. Họ tiếc rẻ bao công sức đã đổ ra nên ngần ngừ không định phá nhưng Bí thư thôn quyết liệt chỉ đạo phá hết chỉ lấy cốt thép rồi tiếp tục đổ lại.

Một dịp tình cờ khi thôn Quán Thanh đang làm cầu, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn lúc đó là ông Vũ Huy Hoàng (nay là Bộ trưởng Bộ Công thương) đi công tác qua. Nghe chuyện ông tò mò xuống hỏi xây cây cầu thế này nhà nước hỗ trợ gì? Dân đáp chẳng có, khiến ông Bí thư tức tốc huy động ngân sách trợ giúp thêm.

Ngày khánh thành, làng mở hội ăn mừng, cờ hoa giăng dọc cầu, hát then vui chật ngõ, lợn quay thơm lừng bản trên, xóm dưới. Cây cầu là tài sản chung mà trong thôn ai cũng coi như tài sản của chính nhà họ.

Mỗi bận mưa lũ, cả làng đổ ra vớt gỗ trôi, rều rác vì sợ chúng mắc vào mố kéo sập cầu đi. Mỗi bận mưa lũ, nhà nhà trong thôn đều chuẩn bị sẵn hai bao tải đất đắp tránh nước xối hai bên đầu cầu. Lũ tan, dân lại kéo ra xúc đất, hót phù sa đọng rồi múc nước rửa sạch mặt cầu, thành cầu sao cho như mới.

Cầu Quán Thanh hoàn thành, dân từ thôn Đồng Đĩnh, Đồng Hóa vòng sang đi rất đông. Phải xây cầu cho hai thôn ấy, Bí thư Đại quyết định. Khỏi phải nói niềm vui của dân thôn Đồng Đĩnh, Đồng Hóa khi ấy. Rút kinh nghiệm từ cây cầu đầu tiên, mặt cầu được mở rộng ra 2,2 m dễ dàng cho ô tô đi lại trong khi vẫn theo kết cấu liền mố như ở Quán Thanh.

Giá thành mỗi cây cầu khi xây xong chỉ 128 triệu đồng, rẻ chỉ bằng già nửa so với những cây cầu của nhà nước xây vì dân không có thói quen “ăn” xi măng, sắt thép, vật tư lại huy động được ngày công lao động tập thể.


Ban xây dựng cầu năm nào

Ông Đại bảo, làm cho cộng đồng, cho làng xã, chẳng ai dám tà tâm. Ngay như lễ động thổ cầu, Ban chỉ đạo làm một mâm cơm, con gà cúng cũng phải giải trình lên xuống trước các cụ trong làng một hai rằng đó là tiền túi của mình tự đóng góp. Năm 2008, một trận lũ lớn trên sông Thương, các ngầm do nhà nước thi công như Đồng Mỏ, Mai Sao xói lở, bật từng mảng nhưng ba cây cầu của dân Chi Lăng xây vẫn trụ vững, kiên cường.

Khi chưa có cầu, người Chi Lăng trồng na ở trên các dãy núi đá cheo leo, bón phân, thu hoạch, vận chuyển sản phẩm rất khổ. Đầm đẫm mồ hôi, công sức nhưng nông sản làm ra vẫn bị ách tắc đầu ra, vẫn phải bán với giá rẻ mạt. Giờ máy cày, máy kéo chạy bon bon vào tận chân núi, nương na. Trên đó, người ta xây cả những bể trữ nước chủ động tưới cho mùa khô. Trên đó, người ta ứng dụng kỹ thuật mới cắt tỉa cành, thụ phấn chủ động để trăm hoa là thành trăm quả.

Mùa thu hoạch, những sọt na chon von từ các sườn núi được chuyển xuống đất bằng hệ thống tời máy, từ đó xếp sang xe tỏa đi tiêu thụ khắp miền Bắc. Na Đồng Bành, Chi Lăng vốn nức tiếng về độ ngọt cao, vị thơm mát, từ hồi đường đi lại thuận tiện chẳng khác hổ được chắp thêm cánh, đem lại cho mỗi gia đình trong thôn, xã cả trăm triệu đồng.

Vị Bí thư xã thủa nào dẫn tôi đi một vòng tham quan ba cây cầu của Chi Lăng. Nước sông Thương trong vắt, đôi bờ tre xanh ngằn ngặt, cây cầu cong cong tạo dáng mềm mại như eo thon thiếu nữ mới vừa đôi tám. Tiếng xe cộ, tiếng người nói xôn xao. Cây cầu, bến nước trở thành điểm giặt giũ của các bà, các mẹ, thành chốn hẹn hò của nữ tú, nam thanh, thành chiếc cầu ô thước giữa cuộc đời thực.

Ông Đại kể với tôi năm khánh thành cầu, thôn Quán Thanh đã xác nhận kỷ lục khi có tới 20 đám cưới được tổ chức trong khi những năm trước chỉ có dăm ba đám là cùng. Những đoàn nhà trai, nhà gái sánh vai nhau trong xúng xính áo Tày, áo Nùng, soi bóng xuống dòng Thương như một bức tranh thủy mặc. (Hết)

Xem thêm
Thái Nguyên thông qua nghị quyết sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã 2023-2025

Đây là 1 trong 10 nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội được thông qua tại Kỳ họp thứ 18 của HĐND tỉnh Thái Nguyên khóa XIV, nhiệm kỳ 2021-2026.

Syngenta tập huấn kỹ thuật, sử dụng drone an toàn, hiệu quả tại ĐBSCL

Vĩnh Long Ngày 26/4, tại Vĩnh Long, Công ty TNHH Syngenta Việt Nam tổ chức tập huấn cho 230 người điều khiển máy bay phun thuốc BVTV, cách sử dụng an toàn và hiệu quả tại ĐBSCL.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Kỷ lục 120 món ăn chế biến từ sâm dây tại núi rừng Ngọc Linh

Tại núi rừng Ngọc Linh (huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum) đã chứng kiến các đầu bếp chế biến 120 món ăn từ sâm dây và được xác lập kỷ lục Việt Nam.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm