Trước thềm Hội nghị Phát triển bền vững nuôi biển, nhìn từ Quảng Ninh diễn ra ngày 1/4, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến đã có những chia sẻ với Báo Nông nghiệp Việt Nam, trọng tâm là chiến lược và giải pháp căn cơ để đưa nuôi biển trở thành ngành hàng có giá trị kinh tế cao và phát triển bền vững.
Nuôi biển không chỉ vì câu chuyện 1,45 triệu tấn, 10 -12 tỷ đô la…
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến chia sẻ: Với bờ biển dài hơn 3.260 km, diện tích vùng biển rộng hơn 1 triệu km2, hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, để phát triển kinh tế biển Ban Chấp hành Trung ương đã có Nghị quyết 36 - NQ/TW về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Một trong số những chủ trương lớn của nghị quyết chính là nuôi trồng và khai thác hải sản, hay còn gọi là nuôi biển như: Chuyển từ nuôi trồng, khai thác hải sản theo phương thức truyền thống sang công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao. Tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ và viễn dương phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển đi đôi với thực hiện đồng bộ, có hiệu quả công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho ngư dân…
Cụ thể hóa nghị quyết đó, Bộ NN-PTNT cũng đã xây dựng Đề án nuôi biển và được Thủ tướng ký phê duyệt vào năm 2021. Quan điểm xuyên suốt của Đề án là phát huy lợi thế của biển, xây dựng ngành nghề nuôi biển khép kín, hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, truy xuất nguồn gốc trên cơ sở chuyển đổi số gắn với giảm phát thải. Xây dựng ngành hàng nuôi biển xanh góp phần thực hiện Nghị quyết số 19 về xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.
"Nói như thế để thấy rằng, nuôi biển là một xu thế tất yếu, chiến lược phát triển nhằm phát huy lợi thế của quốc gia. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đối tượng nuôi phong phú, từ các loài cá, rong, nhuyễn thể rất đa dạng, chất lượng gắn với các vùng sinh thái rất cao và kinh nghiệm nuôi biển nhiều đời, nếu có chiến lược, giải pháp khơi thông tiềm lực nuôi biển chắc chắn chúng ta sẽ có một ngành hàng có giá trị kinh tế rất lớn”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định.
Phân tích các yếu tố tiềm năng, lợi thế và câu chuyện về ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số… Thứ trưởng Phùng Đức Tiến tin tưởng nuôi biển nói riêng và nuôi trồng thủy sản nói chung của Việt Nam sẽ sớm vươn tầm khu vực và thế giới.
"Trong số 1 triệu km2 vùng biển, trong tương lai chỉ cần chúng ta nuôi khoảng 500.000 km2 thì sản lượng không chỉ ở 1,45 triệu tấn như trong mục tiêu Đề án nuôi biển mà phải gấp đôi số đó. Cộng với hơn 5 triệu tấn thủy sản nuôi nội đồng, 2,8 triệu tấn từ khai thác chúng ta sẽ có khoảng hơn 10 triệu tấn thủy sản. Giá trị xuất khẩu lúc đó không chỉ 10 - 11 tỷ đô la như hiện nay mà sẽ vượt rất xa. Bằng chứng rõ nhất là mục tiêu giai đoạn 2021 - 2025 chúng ta đặt ra khoảng 850.000 tấn thủy sản… nhưng đến năm 2023 đã đạt 800.000 tấn, năm 2024 theo kế hoạch sẽ đạt 850.000 tấn, thậm chí có thể hơn.
Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ “về đích” trước 1 năm và quan trọng hơn là khẳng định, chiến lược, giải pháp của chúng ta về nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi biển nói riêng đang đi đúng hướng. Đó không phải riêng mục tiêu kinh tế mà còn là bài toán xã hội, môi trường”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nói.
5 nút thắt, rào cản và giải pháp tháo gỡ
Thưa Thứ trưởng, rõ ràng tiềm năng, lợi thế nuôi biển của quốc gia đã được phân tích, nhìn nhận rõ, tuy nhiên thực tế như Báo Nông nghiệp Việt Nam đã có loạt bài phản ánh “1 giấy phép nuôi biển vướng 6 bộ, ngành”, rõ ràng đầu tư vào nuôi biển vẫn còn nhiều hạn chế bởi những rào cản, vướng mắc… Theo Thứ trưởng đâu là những nút thắt, hạn chế của nuôi biển hiện nay?
Tôi cho rằng về chính sách, luật pháp liên quan đến nuôi biển hiện nay đã tương đối đầy đủ. Chúng ta có Luật Thủy sản ban hành từ năm 2017, có 2 Nghị định, 8 Thông tư liên quan đã phần nào đáp ứng yêu cầu về môi trường pháp lý nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi biển nói riêng.
Hiện nay chúng ta vẫn đang phải chờ Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 -2030, tầm nhìn đến đến năm 2045. Khi Quốc hội thông qua quy hoạch này thì chúng ta sẽ có điều kiện, căn cứ để giao mặt nước biển cho người nuôi biển. Đây là vấn đề vô cùng quan trọng, trước đây ở Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đã khẳng định giao mặt nước biển như giao đất, có quyền được thế chấp, quyền vay ngân hàng…
Tuy nhiên thực tế thời gian qua muốn giao mặt biển chúng ta vẫn phải xin ý kiến 6 bộ, ngành với những thủ tục hành chính hết sức cồng kềnh.
Song song với đó, Bộ NN-PTNT cũng đang chủ trì thực hiện sửa đổi Nghị định 67 về các chính sách phát triển thủy sản để trình Chính phủ. Trong đó có nhiều nội dung về chính sách hỗ trợ, đầu tư cho nuôi biển. Vấn đề hiện nay của nuôi biển tôi cho rằng là nguồn lực đầu tư. Đầu tư cho hạ tầng, đầu tư trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu giống, chế biến thức ăn, an toàn sinh học… Cụ thể, có 5 tồn tại, hạn chế cần khắc phục nhất.
Đầu tiên là hạ tầng phục vụ nuôi biển của chúng ta hiện nay còn rất yếu kém, còn thiếu và yếu để đáp ứng phục vụ cho phát triển nuôi biển.
Thứ hai trình độ khoa học công nghệ nuôi biển của chúng ta cũng còn đang rất thấp. Thể hiện ở chỗ giống cá, rong tảo, nhuyễn thể của chúng ta phần lớn là không rõ nguồn gốc, giống nhập lậu, giống chưa được nghiên cứu chọn tạo… Mặc dù biết vai trò của giống quyết định đến năng suất, chất lượng, đóng vai trò quan trọng tuy nhiên nguồn lực đầu tư nghiên cứu giống còn rất hạn chế.
Thứ ba là thức ăn dinh dưỡng cho nuôi biển. Đây là yếu tố cấu thành sức cạnh tranh của ngành hàng nuôi biển nhưng thực tế chưa có sản lượng thức ăn nuôi biển đủ để đáp ứng, phần lớn vẫn theo kiểu băm cá, nhuyễn thể làm thức ăn phục vụ nuôi biển. Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy, không những mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng đến môi trường biển mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, năng suất thủy hải sản.
Thứ tư, vấn đề an toàn sinh học trong nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi biển nói riêng chưa được quan tâm nhiều.
Thứ năm là phương thức nuôi, phần lớn nuôi biển của chúng ta hiện nay vẫn chủ yếu theo kiểu lồng bè thủ công, làm từ những vật dụng sẵn có ở các địa phương rất thô sơ như làm bằng tre, bằng gỗ…
Cũng có một số doanh nghiệp đầu tư vào nuôi biển theo quy mô công nghiệp, hiện đại như Công ty TNHH thủy sản Australis Việt Nam nuôi cá chẽm ở vịnh Vân Phong (Khánh Hòa), Công ty TNHH Một thành viên Thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Trấn Phú nuôi cá ở đảo Phú Quốc (Kiên Giang), Tập đoàn Trường Phát nuôi hàu xen canh rong sụn ở Quảng Ninh…
Tuy nhiên các mô hình có trang thiết bị hiện địa vẫn chiếm tỷ lệ thấp và so với trình độ nuôi biển tiên tiến trên thế giới vẫn đang ở mức vừa phải. Có nghĩa là phương thức nuôi biển của chúng ta, dù quan trọng nhưng chưa hiện đại hóa được một cách bài bản.
Giải pháp trọng tâm để giải quyết những nút thắt, rào cản đó là gì, thưa Thứ trưởng?
Giải pháp đầu tiên là phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi nhất thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nuôi biển. Một trong những quan điểm xuyên suốt trong nhiều năm qua của chúng ta là tập trung cải cách hành chính, tạo môi trường thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp có đủ tiềm lực, khoa học công nghệ vào đầu tư. Từ những doanh nghiệp tiên phong đó sẽ cùng với các hợp tác xã, người nuôi biển xây dựng chuỗi ngành hàng, chuỗi liên kết để cùng nhau tạo thành một hệ sinh thái nuôi biển và lan tỏa dần hệ sinh thái đó.
Thứ hai là những giải pháp về cơ chế chính sách, giải pháp đầu tư nhằm đáp ứng những đòi hỏi thực tiễn về quy hoạch không gian biển và những vấn đề mang tính sống còn khác như: Phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là khoa học công nghệ tiên tiến phục vụ nuôi biển; Phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi biển; Đầu tư nghiên cứu sản xuất giống, thức ăn, chế biến và chế biến sâu phục vụ nuôi biển; Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng trình độ nuôi biển ở quy mô công nghiệp… Để từ đó giải quyết bài toán nuôi biển một cách toàn diện, có hiệu quả và thực sự bền vững.
Trong quá trình xây dựng Nghị định 67 sửa đổi và trên cơ sở những mô hình nuôi biển quy mô hiện đại của Australis, Trường Phát, Trấn Phú… vừa rồi Bộ NN-PTNT cũng đã kêu gọi De Hues Việt Nam nghiên cứu đầu tư xây dựng một số nhà máy thức ăn ở Kiên Giang, Khánh Hòa, Hải Phòng, Quảng Ninh… để phục vụ các trung tâm nuôi biển lớn đã được Chính phủ quy hoạch. Có thể nói, nhìn nhận rõ tiềm năng, lợi thế của nuôi biển Việt Nam các nhà đầu tư rất tích cực và mang những khát vọng lớn.
Qua kêu gọi của Bộ NN-PTNT và các địa phương, De Heus Việt Nam hiện đang nghiên cứu trên 2.000 ha diện tích nuôi biển ở tỉnh Quảng Ninh. Giải pháp của chúng tôi là phải có những doanh nghiệp đầu tàu vào đầu tư để phối hợp với các doanh nghiệp, hợp tác xã, người nuôi biển thành chuỗi liên kết, xây dựng những mô hình nuôi biển khép kín, từ sản xuất con giống, thức ăn, phương thức nuôi, phòng bệnh và chế biến, xuất khẩu…
Đây là những mô hình hiện nay đang rất phát triển ở châu Âu và các quốc gia có công nghệ nuôi biển tiên tiến. Chúng tôi tin rằng với cơ chế chính sách được tháo gỡ, với sự đồng sức đồng lòng của cơ quan quản lý, chính quyền địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã và người nuôi biển thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ thành công.
Khó khăn chia sẻ, lợi ích hài hòa
Thưa Thứ trưởng, mục tiêu của Việt Nam đang hướng đến xây dựng ngành hàng nuôi biển công nghiệp hiện đại, đáp ứng đòi hỏi các tiêu chuẩn quốc tế… Để hiện thực mục tiêu đó, sắp xếp lại ngành hàng, giải quyết các xung đột và bài toán manh mún, nhỏ lẻ, tự phát hiện nay không hề đơn giản. Bộ NN-PTNT đồng hành với các địa phương như thế nào để chung tay xây dựng ngành hàng nuôi biển có giá trị kinh tế cao và phát triển bền vững?
Mục tiêu của Việt Nam đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000 ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3, sản lượng nuôi biển đạt 850.000 tấn. Đến năm 2030, diện tích nuôi biển đạt 300.000 ha, thể tích lồng nuôi 12 triệu m3, sản lượng nuôi biển đạt 1.450.000 tấn và giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 - 2 tỷ đô la Mỹ. Tầm nhìn đến năm 2045, ngành công nghiệp nuôi biển của nước ta đạt ở trình độ tiên tiến với phương thức quản lý hiện đại. Công nghiệp nuôi biển trở thành bộ phận quan trọng trong ngành thủy sản, có đóng góp trên 25% tổng sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 4 tỷ đô la Mỹ.
Thực tế hiện nay nuôi biển của chúng ta đa phần vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, tự phát, nuôi theo kiểu phong trào còn phổ biến. Tuy nhiên, tôi cho rằng khi Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến đến năm 2045 được thông qua thì chúng ta sẽ có chiến lược, giải pháp phát triển nuôi biển cụ thể, rõ ràng.
Bộ NN-PTNT cùng với cá bộ, ngành liên quan và các địa phương sẽ có những quy định nuôi biển vùng bờ, vùng lộng, vùng khơi rõ ràng. Song song với đó là giải pháp về đối tượng nuôi. Loài nào nuôi gần bờ, loài nào nuôi xa bờ, loài nào nuôi vùng biển kín, loài nào ở vùng biển hở cũng sẽ được quy hoạch rất rõ.
Song song với đó là giải quyết các bài toán để hài hòa lợi ích giữa nuôi biển với các ngành hàng khác, lĩnh vực khác, hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp, người dân và hợp tác xã. Nhất là khi hơn 86.800 chiếc tàu khai thác, đánh bắt hiện nay sẽ từng bước giải bản theo lộ trình nhằm từng bước giảm cường lực khai thác thì giải pháp chuyển từ đánh bắt sang nuôi trồng, vấn đề đảm bảo an sinh cho ngư dân cũng sẽ được thực hiện theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng là lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ, có như thế hệ sinh thái nuôi biển mới phát triển bền vững.
Ở góc độ nuôi biển và các ngành hàng, lĩnh vực kinh tế xã hội khác, tất nhiên sẽ có những xung đột. Tuy nhiên trên cơ sở quy hoạch không gian biển gắn với quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và 4 quy hoạch quốc gia sẽ phân định, ổn định lâu dài để phát triển hòa.
Nuôi biển đã được xác định là thế mạnh của quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế, chính vì vậy vì mục tiêu kinh tế, vì mục tiêu an sinh xã hội, vì sự phát triển bền vững, hài hòa tôi cho rằng các địa phương phải tạo điều kiện tối đa để cùng nhau xây dựng ngành hàng nuôi biển, để phát huy hết lợi thế, tiềm năng rất lớn của nuôi biển Việt Nam.
Bộ NN-PTNT cam kết sẽ định hướng, chỉ đạo, đồng hành các đơn vị trong Bộ, ngành và các địa phương để cụ thể hóa quy hoạch không gian biển, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch kinh tế xã hội các địa phương để khơi thông lợi thế quốc gia về kinh tế biển nói chung và nuôi biển nói riêng.
Quy hoạch vùng nuôi, đối tượng nuôi như thế nào, gắn với yêu cầu của thị trường ra sao…, ngay sau khi có quy hoạch không gian biển quốc gia, Bộ NN-PTNT cùng với Bộ TN-MT, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành liên quan sẽ có kế hoạch, chương trình hành động cụ thể hơn để có thể triển khai nuôi biển bền vững.
Thứ trưởng kỳ vọng thế nào về tương lai của ngành hàng nuôi biển Việt Nam?
Tôi nghiên cứu rất kỹ những bài học nuôi biển trên thế giới. Ví dụ đất nước Na Uy họ chỉ có 49 trang trại nuôi biển nhưng theo thống kê trong một ngày họ cấp tới 47 triệu suất ăn cá hồi, đem lại giá trị kinh tế rất lớn từ ngành hàng nuôi biển.
Còn chúng ta, mặc dù còn nhiều khó khăn, rào cản như tôi đã phân tích ở trên, tuy nhiên khởi đầu giai đoạn 2021 - 2025 chúng ta đã đạt được những kết quả rất tích cực và vượt mục tiêu đề ra, tăng trưởng chung của thủy sản trên 10%/năm, cùng với đó là những lợi thế, tiềm năng rất lớn.
Nếu có chính sách đầu tư xứng tầm, tiềm năng, lợi thế, nguồn lực nuôi biển được khơi thông, tôi tin tưởng chắc chắn rằng trong thời gian tới nuôi biển Việt Nam sẽ hướng tới công nghiệp, với trình độ công nghệ hiện đại, gắn vào chuỗi sẽ không còn xa lạ. Lúc đó ngành hàng nuôi biển Việt Nam sẽ tiến tới ngang hàng các nước trong khu vực và sau đó là các quốc gia có trình độ nuôi biển tiên tiến trên thế như Na Uy, Đan Mạch…
Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng.
Ngày 1/4, Bộ NN-PTNT và tỉnh Quảng Ninh tổ chức “Hội nghị Phát triển bền vững nuôi biển - Nhìn từ Quảng Ninh”. Hội nghị do Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan và Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Xuân Ký chủ trì. Dự kiến, Hội nghị sẽ thu hút khoảng 400 - 450 đại biểu trong nước và quốc tế tham dự.
Sự kiện được Báo Nông nghiệp Việt Nam phát trực tiếp trên các nền tảng đa phương tiện.
Quý vị có thể tham dự qua zoom. ID: 939 8269 4473. Mật mã: 202404