Báo Nông nghiệp Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) Trương Đình Hòe để hiểu hơn về những cơ hội cũng như “những cơn sóng lớn” mà xuất khẩu thủy sản nước ta dự báo sẽ phải đối mặt trong năm nay. Cần vững tay chèo song cũng phải có những “cú bẻ lái” đúng lúc để giữ vững đà tăng trưởng cho lĩnh vực này.
Sẽ về đích 9,5 - 10 tỷ USD
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2023 chỉ đạt gần 9 tỷ USD, giảm 18% so với năm 2022. Vậy trong năm 2024, xuất khẩu thủy sản nước ta đặt kỳ vọng như thế nào, thưa ông?
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta năm 2023 giảm là do ảnh hưởng của tình hình lạm phát cao, đặc biệt tại các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản…, nhu cầu tiêu dùng giảm, lượng hàng tồn kho nhiều, giá xuất khẩu giảm so với năm trước.
Trong đó, tôm là mặt hàng xuất khẩu chính chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm mạnh hơn 21% trong năm 2023, dẫn đến kim ngach xuất khẩu của toàn ngành cũng bị ảnh hưởng.
Năm 2024, các nguyên nhân ảnh hưởng đến xuất khẩu thủy sản giảm đang dần được kiểm soát và phục hồi. Dù lạm phát được kiểm soát nhưng sẽ phục hồi chậm, nhu cầu thị trường cũng sẽ bị tác động, chi phí sản xuất vẫn còn cao trong khi giá thành lại tương đối thấp, thêm vào đó là sự bất ổn tại Biển Đỏ làm tăng chi phí logistics và các chi phí liên quan khác, nguồn nguyên liệu thiếu ổn định...
Tất cả những nguyên nhân trên sẽ tác động trực tiếp đến xuất khẩu thủy sản trong năm 2024, dự báo các doanh nghiệp sẽ cần thời gian điều chỉnh và thích nghi dần để có thể phục hồi vào nửa cuối năm 2024, đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm nay trở về mức 9,5 - 10 tỷ USD.
Ông đánh giá như thế nào về những cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực xuất khẩu thủy sản nước ta trong năm nay?
Như đề cập ở trên, ngành thủy sản sẽ tiếp tục phải đối mặt với các vấn đề về nhu cầu tiêu thụ; sức cạnh tranh với các quốc gia khác; xu hướng tiêu dùng; những yêu cầu về trách nhiệm doanh nghiệp như các chứng nhận bền vững, chứng nhận bảo vệ môi trường, phúc lợi động vật…; và các rào cản thương mại như các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, đánh bắt hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU)…
Về các vấn đề nội tại, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với những thách thức từ chất lượng con giống không ổn định, biến đổi khí hậu, dịch bệnh ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi, dẫn đến nguồn nguyên liệu thiếu ổn định cho chế biến xuất khẩu.
Tuy nhiên, hiện nay với sự quan tâm của Chính phủ và Bộ NN-PTNT trong việc triển khai hàng loạt dự án, chuyên đề hỗ trợ doanh nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu, ứng dụng khoa học công nghệ vào nuôi trồng và sản xuất, doanh nghiệp đã tập trung cho các hoạt động gia công nhiều hơn để giải bài toán về thiếu nguyên liệu, chú trọng nhiều hơn cho sản phẩm thủy sản chế biến sâu, giá trị gia tăng và thị trường nội địa đã trở thành “sân chơi” quan trọng để giúp cân bằng yếu tố cung - cầu thủy sản trong lúc các thị trường nhập khẩu đang có nhiều biến động.
Hiện, căng thẳng Biển Đỏ đang là vấn đề quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản. Theo ông điều này sẽ có những tác động ra sao đến những đơn hàng của tương lai hoặc những chi phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu thêm?
Vừa qua sự cố tàu vận chuyển bị lực lượng Houthi tấn công tại Vịnh Aden, Biển Đỏ đã như “hồi chuông” đánh động đến các bên, đặc biệt là các hãng tàu và doanh nghiệp xuất khẩu nói chung, thủy sản nói riêng.
Trong thời gian qua, với sự bất ổn Biển Đỏ, các doanh nghiệp thủy sản đã phải gánh thêm chi phí vận chuyển và các chi phí bảo hiểm khác. Điều này góp phần làm tăng gia thành.
Đồng thời, các doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với những nguy cơ mất an toàn đối với các các lô hàng bán sang EU hoặc Mỹ nếu hãng tàu lựa chọn hải trình qua Biển Đỏ.
Nghiên cứu kỹ thị trường và xu hướng tiêu dùng
Trước nhiều “sóng gió” như vậy, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam nên có những cú “bẻ lái” về thị trường và sản phẩm xuất khẩu như thế nào để giữ được tốc độ tăng trưởng, thưa ông?
Thế mạnh của thủy sản Việt Nam là các sản phẩm giá trị gia tăng, chế biến sâu, theo đó cần phát huy thế mạnh này.
Đồng thời, tăng cường tập trung đẩy mạnh các chứng nhận quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm (HACCP, ISO, BRC, IFS…), về phát triển bền vững (MSC, ASC, BAP, FIP…), về trách nhiệm môi trường - xã hội (CSR, BSCI…) nhằm đáp ứng nhu cầu và xu hướng tiêu dùng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu lựa chọn những thị trường lợi thế về vị trí địa lý, những thị trường nhỏ lẻ và tiềm năng khác.
Vậy theo ông, bản thân doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam nên có sự thích ứng linh hoạt ra sao để tăng sức cạnh tranh trên thị trường?
Để tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, khẳng định được vị thế trong điều kiện khó khăn như hiện nay, các doanh nghiệp cần chủ động hơn trong việc đưa các ứng dụng khoa học công nghệ vào trong nuôi trồng và sản xuất nhằm tăng hiệu quả hoạt động.
Đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, áp dụng ứng dụng chuyển đổi số trong khâu quản lý và kinh doanh, tập trung nhiều hơn cho các sản phẩm thủy sản chế biến sâu, sản phẩm thế mạnh…
Cần nghiên cứu kỹ thị trường và xu hướng tiêu dùng để có thể linh động trong việc xây dựng chiến lược sản xuất và kinh doanh.
Hơn nữa, các doanh nghiệp cần tính toán những bất ổn về chính trị và biến động về thị trường để có dự toán phần chi phí này vào giá thành xuất khẩu một cách hợp lý nhưng không giảm sức cạnh tranh cho thủy sản Việt Nam.
Xin cảm ơn ông!