Theo ghi nhận của Nông nghiệp Việt Nam, loại hình thu gom, sơ chế, chế biến, cấp đông và bảo quản đông lạnh của ngành thủy sản Nghệ An có bước phát triển khá mạnh. Năm 2020 toàn tỉnh có 109 cơ sở, tăng 128,23% so năm 2015; 224 kho lạnh bảo quản đạt với sức chứa 15.000 tấn hàng, tăng đến 150% công suất so với cùng kỳ năm 2015. Hệ thống kho lạnh tập trung ở 4 huyện, thị ven biển, nhiều nhất là Quỳnh Phương, Quỳnh Lập (thị xã Hoàng Mai); Diễn Ngọc, Diễn Bích (huyện Diễn Châu); Nghi Tân, Nghi Hải (thị xã Cửa Lò).
Các chủ đầu tư không ngừng đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, qua đó tăng công suất cấp đông lên 8 - 10 tấn/mẻ so với 5 - 6 tấn/mẻ trước đây, dung tích kho bảo quản tăng lên từ 80 - 100 tấn/kho. Thay đổi này tạo ra lợi ích kép cho ngành nghề kinh doanh thủy sản nói chung, vừa đảm bảo thu gom, cấp đông, bảo quản nguyên liệu lại cung cấp số lượng lớn nguồn hàng cho nhu cầu tiêu thụ nội địa.
Nếu như năm 2015 toàn tỉnh Nghệ An chỉ có độc duy nhất 1 cơ sở tham gia loại hình này thì 5 năm sau có đến 5 cơ sở quy mô thực hiện chế biến thủy sản xuất khẩu (2 cơ sở có Code của EU, 1 cơ sở có Code xuất khẩu thị trường Trung Quốc và các nước Đông Nam Á); 3 cơ sở (Công ty TNHH Royal Foods, Công ty TNHH Frescol Tuna, Công ty TNHH Một thành viên Masan MB) được đầu tư trang thiết bị công nghệ hiện đại đảm bảo công tác chế biến sâu…
Hiện mặt hàng chế biến xuất khẩu chủ yếu là hàng đông lạnh, đồ hộp và bột cá. Tổng sản phẩm năm 2020 đạt 25.179 tấn, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 17,14%/năm. Giá trị chế biến xuất khẩu đạt 28,13 triệu USD, bằng 176,81% so với năm 2015, tốc độ tăng trưởng bình quân 12,08%/năm, đóng góp 7,34% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thủy sản.
Dẫu số liệu thống kê cho thấy mặt tích cực nhưng điều đáng quan ngại là chất lượng và số lượng không thực sự song hành, các mặt hàng gia công, chế biến thô vẫn chiếm tỷ trọng lớn, đồng nghĩa giá trị kinh tế không cao.
Lĩnh vực chế biến thủy sản truyền thống cũng mang những nét tương đồng, đến năm 2020 chỉ có 5 đơn vị áp dụng chế biến nước mắm sử dụng phương thức truyền thống kết hợp công nghệ kéo rút. Tổng công suất thiết kế của các cơ sở này đạt 9 triệu lít/năm, sản lượng nước mắm đạt 5,5 triệu (năm 2020), bên cạnh đó là 220 tấn mắm các loại, chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng quan chung.
Ngược lại có khoảng 800 cơ sở/hộ gia đình (phần lớn nằm trong 10 làng nghề chế biến có tiếng trên địa bàn tỉnh) tham gia thu mua nguyên liệu từ các tàu khai thác, đầm nuôi, sau đó phân phối lại cho các cơ sở chế biến, hoặc bán trực tiếp người tiêu dùng. Loại hình này khá phong phú về hình thức (chế biến nước mắm, mắm các loại, thu gom nguyên liệu, cá nướng, hải sản phơi khô (mực khô, tôm khô, cá khô, moi khô…), sản lượng hàng năm khá ổn định (riêng mặt hàng nước mắm trên dưới 21,87 triệu lít, mắm các loại khoảng 8.000 tấn, hải sản khô khoảng 1.500 tấn).
Có điều “đông về lượng nhưng chưa tinh về chất”, hầu hết các cơ sở sản xuất nêu trên đều bố trí ngay trong khuôn viên hộ gia đình, mặt bằng sản xuất chật hẹp, quy trình sản xuất thủ công, trang thiết bị thô sơ, chưa đảm bảo điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều này kéo theo chất lượng chưa tốt, kết hợp mẫu mã chưa thực sự bắt mắt tức thì gây ra nhiều hạn chế, bất cập trong việc nâng cao giá trị sản phẩm cũng như mở rộng thị trường.
Biết rõ thực tại nhưng khi nhân lực lẫn vật lực đều hạn chế chưa thì phương thức này vẫn là sự lựa chọn của số đông, lâu dài rõ ràng là lực cản không nhỏ của ngành thủy sản địa phương.