| Hotline: 0983.970.780

Trao quyền cho cộng đồng để quản lý tài nguyên thiên nhiên hiệu quả

Thứ Sáu 26/08/2022 , 15:12 (GMT+7)

Ngày 26/8, Bộ NN-PTNT phối hợp với UNDP tổ chức Đối thoại cấp cao về Hợp tác quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Đây là một phần trong chuỗi các sự kiện về Đối thoại chính sách được Bộ NN-PTNT phối hợp với các đối tác quốc tế thông qua diễn đàn Chương trình hỗ trợ quốc tế (ISG) thực hiện. Hội thảo nhằm chia sẻ kinh nghiệm từ các mô hình đồng quản lý có hiệu quả đã được triển khai tại Việt Nam và trên thế giới; những khó khăn, thách thức, các rào cản về chính sách, thể chế và đề xuất các kiến nghị, chính sách về hợp tác đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên.

Bộ trưởng NN-PTNT Lê Minh Hoan phát biểu tại buổi đối thoại. 

Bộ trưởng NN-PTNT Lê Minh Hoan phát biểu tại buổi đối thoại. 

Lồng ghép trách nhiệm, lợi ích của cộng đồng

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan cho biết tài nguyên thiên nhiên đang có chiều hướng suy thoái với nhiều tác động nội tại và khách quan như biến đổi khí hậu, biến động thị trường… Như vậy, để bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững, việc chuyển đổi các mô hình theo hướng xanh và phát triển gắn liền với bảo tồn tài nguyên là yêu cầu cấp thiết.

Trong đó, Bộ trưởng nhấn mạnh việc trao quyền cho người dân, cộng đồng dân cư tiếp cận được với tri thức, dựa vào “dữ liệu” sẵn có để đưa ra những quyết định tốt hơn trong việc quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên còn hạn chế của mình. Phương thức hợp tác này cần được nhân rộng không chỉ đối với ngành lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy sản mà cả trong các lĩnh vực khác nhằm nâng cao giá trị nông lâm thủy sản, phục hồi tài nguyên thiên nhiên.

Nhân sự kiện, Bộ NN-PTNT trao Kỷ niệm chương 'Vì sự nghiệp Nông nghiệp và Phát triển nông thôn' cho bà Caitlin Wiese, Trưởng Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam. 

Nhân sự kiện, Bộ NN-PTNT trao Kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp Nông nghiệp và Phát triển nông thôn" cho bà Caitlin Wiese, Trưởng Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam. 

Bà Caitlin Wiese, Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) tại Việt Nam cho biết, để duy trì tăng trưởng lâu dài, Việt Nam cần hướng tới đầu tư, duy trì, và tái tạo nguồn lực tự nhiên mà người dân, cộng đồng và nền kinh tế đang phụ thuộc vào. Chính phủ cần sự tham gia và hỗ trợ của cộng đồng địa phương và khu vực tư nhân. Để đạt được mục tiêu này, cần trao quyền và tăng cường hơn nữa vai trò của cộng đồng địa phương và khu vực tư nhân trong đồng quản lý nguồn lực tự nhiên và chia sẻ lợi ích, cũng như lồng ghép cách tiếp cận này trong trong các kế hoạch phát triển và quy trình lập và phân bổ ngân sách. 

Chia sẻ tại Đối thoại cấp cao, ông Tô Mạnh Tiến, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Lào Cai cho biết các mô hình thí điểm hợp tác trong phát triển dược liệu gắn với công tác bảo tồn, phát triển từng đã đạt được một số kết quả khả quan. Lào Cai có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn (417.463ha), với nhiều loại lâm sản ngoài gỗ, dược liệu, tinh dầu có giá trị cao có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế lâm nghiệp, kinh tế dưới tán rừng.

Với mô hình thí điểm, giao rừng để cộng đồng quản lý và bảo tồn phát triển nguồn gen, trong đó có các loài cây dược liệu, người dân đã chủ động về nguồn giống, có việc làm, có thu nhập và hợp tác với doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm dựa vào tri thức bản địa đã góp phần bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Với việc quản lý, bảo vệ diện tích rừng trên, cộng đồng còn được hưởng chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng với mức 500.000 - 600.000 đồng/ha/năm.

Đối với lĩnh vực thủy sản, bà Trần Thị Thu Nga, nguyên chủ tịch Hội Thủy sản tỉnh Bến Tre chia sẻ rằng người dân sẽ tích cực tham gia cùng quản lý, phát triển tài nguyên thiên nhiên nếu nhìn thấy lợi ích. Từ thực tế kết quả mô hình hợp tác khai thác, nguồn lợi ngao, sò của tỉnh Bến Tre cho thấy, tính hệ thống của tổ chức cộng đồng ngư dân ngày càng rõ nét; diện tích nuôi ngao, chất lượng ngao ngày càng được cải thiện; tính công khai, minh bạch trong nuôi trồng ngao được phát huy và sự phối hợp giữa các bên liên quan ngày càng chặt chẽ.

Để tăng cường hợp tác quản lý tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam, đại diện UNDP đưa ra ba khuyến nghị. Thứ nhất, cần tạo ra môi trường, chính sách thúc đẩy nhằm nâng cao vai trò, lợi ích của cộng đồng địa phương, tăng thời gian thỏa thuận cũng như tạo điều kiện để các bên thực hiện cam kết. Bên cạnh đó cần nâng cao năng lực thể chế, sự cam kết của các ban, ngành liên quan cùng đồng hành với các cộng đồng địa phương.

Thứ hai, xây dựng cơ chế tài chính bền vững, dành nguồn kinh phí hỗ trợ các cộng đồng địa phương ngay từ đầu, đẩy nhanh huy động tài chính thông qua trái phiếu xanh, tín dụng các bon… nhằm tạo nguồn vốn cho công tác quản lý dài hạn.

Thứ ba là tăng cường trao đổi giữa các cộng đồng địa phương. Cần tạo ra một cộng đồng thực hành là nơi chia sẻ các mô hình quản lý, kinh nghiệm, dữ liệu…

Cần chính sách hỗ trợ hợp lý

Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực lâm nghiệp, quy định một số cơ chế về hợp tác quản lý rừng như hợp đồng bảo vệ rừng. Đây nền tảng quan trọng cho việc tổ chức thực hiện các hình thức hợp tác quản lý rừng giữa các chủ rừng là tổ chức nhà nước và cộng đồng dân cư. Tương tự, trong lĩnh vực thủy sản, Luật Thủy sản đã có quy định về phương thức đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản để chia sẻ quyền và trách nhiệm bảo vệ và khai thác. Tuy nhiên, phương thức hợp tác quản lý vẫn còn những bất cập, khó khăn cần phải được tháo gỡ từ chính sách.

Bộ trưởng NN-PTNT cho rằng, để phương thức hợp tác quản lý, đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên đạt hiệu quả, cần áp dụng một cách sâu rộng từ việc xây dựng định hướng phát triển, quy chế quản lý, cách thức tổ chức, cho đến các mô hình cụ thể với tôn chỉ “kêu gọi sự tham gia một cách có trách nhiệm của các bên liên quan để bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên”.

Đại diện Tổng cục Thủy sản cho biết, đồng quản lý đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền vững ở lĩnh vực thủy sản. Trước đây, đồng quản lý trong lĩnh vực thủy sản mới chỉ dừng ở các mô hình thử nghiệm thông qua dự án, khi dự án kết thúc các mô hình hoạt động không còn hiệu quả. Kể từ khi nội dung trên được chính thức đưa vào Luật Thủy sản năm 2017, các địa phương bắt đầu quay lại xây dựng và thực hiện hiệu quả các mô hình đồng quản lý.

Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực lâm nghiệp, quy định một số cơ chế về hợp tác quản lý rừng như hợp đồng bảo vệ rừng.

Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực lâm nghiệp, quy định một số cơ chế về hợp tác quản lý rừng như hợp đồng bảo vệ rừng.

Ông Trần Quang Bảo, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ NN-PTNT cho biết mô hình hợp tác, đồng quản lý đã được áp dụng từ lâu trong lĩnh vực lâm nghiệp. Tuy nhiên có một số chính sách hỗ trợ hiện nay không còn phù hợp nữa, ví dụ chính sách hỗ trợ khoán bảo vệ rừng 400.000/ha/năm. Theo ông Bảo, khoản hỗ trợ này khó có thể đảm bảo cho người dân đồng quản lý và thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng. Hệ thống chính sách hiện nay chú trọng tới hợp tác, liên doanh, liên kết song vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Đặc biệt dưới sức ép về nhu cầu đời sống của người dân cũng như thu nhập cao hơn của các ngành nghề khác, ông Bảo cho rằng cần xây dựng chính sách phù hợp hơn để kết hợp quản lý tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo cơ chế hợp tác phát triển.

Đại diện Tổng cục Lâm nghiệp cũng cho rằng cần đồng bộ cơ chế, chính sách quản lý rừng đặc dụng để người dân có thể phát triển sản phẩm vùng miền, phát triển nông lâm kết hợp…

Xem thêm
Sống lại ký ức hào hùng trên tuyến đường 1C huyền thoại

KIÊN GIANG Tuyến đường 1C nối đường Hồ Chí Minh trên bộ nhằm vận chuyển hàng hóa, vũ khí, thuốc cứu thương, nhu yếu phẩm và đưa rước cán bộ chi viện cho chiến trường miền Nam.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Ùn tắc bến phà ra đảo Cát Bà dịp 30/4 và 1/5

HẢI PHÒNG Ngày 28/4, hàng nghìn người đã ùn ùn đổ về bến phà Đồng Bài để ra đảo Cát Bà khiến giao thông tắc nghẽn.

Chuyện làm du lịch ở miền núi Phú Thọ: [Bài 1] Đồi chè Long Cốc, nàng tiên không ban cho dân được mấy tiền

'Không mấy ai nhìn ra giá trị của rừng Xuân Sơn, Tân Sơn nên bỏ lỡ cơ hội phát triển du lịch', TS. Ngô Kiều Oanh tiếc rẻ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm