| Hotline: 0983.970.780

Về nông dân, từ những nhận thức bất cập

Chủ Nhật 03/01/2021 , 15:10 (GMT+7)

Thực tế nước ta cho biết rằng, trong những điều kiện cụ thể, nhất là khi ở 'bước đường cùng', nông dân Việt Nam vẫn có nhiều sáng tạo để vượt hoàn cảnh.

Nông dân thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng) thu hoạch lúa vụ Đông Xuân. Ảnh: Nguyệt Nhi/VnExpress.

Nông dân thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng) thu hoạch lúa vụ Đông Xuân. Ảnh: Nguyệt Nhi/VnExpress.

Nông dân thường bị coi là giai cấp thụ động và không có năng lực tự giải phóng; nhưng từ đó cho rằng họ cũng không thể tự giải quyết vấn đề, không thể “tự cứu mình” thì cũng cần được xem lại.

Thực tế nước ta cho biết rằng, trong những điều kiện cụ thể, nhất là khi ở “bước đường cùng”, nông dân Việt Nam vẫn có nhiều sáng tạo để vượt hoàn cảnh.

Họ không hoàn toàn là một giai cấp thụ động! Trong những năm 70 đầu 80, nông dân ở nhiều địa phương đã là người đầu tiên “xé rào”, “khoán chui”. Về sau này những hành động ấy được nhìn nhận là tiên phong cho Đổi mới.

Nhìn từ thực tế đổi mới, nông dân bắt đầu từ “khoán chui”, sau đó một thời gian là “dồn điền, đổi thửa”  bây giờ là “dịch chuyển cơ cấu” và họ còn có thể có thêm nhiều sáng kiến có tính chất gợi ý cho chủ trương mới nữa.

Điều đó có nghĩa là, nông dân nước ta hiện nay vẫn có tính chủ động ở mức độ nhất định. Tất cả có một điểm chung là nếu tạo điều kiện “để cho nông dân suy nghĩ trên luống cày của mình” (Lê nin) thì sẽ tạo nhiều cơ hội hơn cho các sáng kiến. Điều kiện ấy chính là xác nhận vai trò tự chủ, chủ thể của nông dân.      

Tính chất tư hữu của nông dân đôi khi còn được xem xét một chiều, giáo điều. Chẳng hạn nhận thức một thời về “cái đại dương mênh mông sản xuất nhỏ hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” đã làm “nản lòng” nhiều người khi tìm kiếm giải pháp phát triển nông nghiệp. Thực tế của đổi mới xác nhận rằng, kinh tế tư nhân, sở hữu tư hữu là do trình độ của sản xuất hiện nay quy định chứ không phải do người ta thích cá thể, tư hữu.

Theo đó, thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế nông hộ của đa số nông dân hiện nay đã được nhìn nhận là bộ phận có vai trò quan trọng”, chứ không phải là yếu tố chống phá, phủ định.

Sản xuất nhỏ, sở hữu nhỏ của nông dân, đôi khi chỉ được nhìn theo cách phiến diện là lạc hậu, thậm chí chỉ thấy mặt tiêu cực là tự phát hoặc không phù hợp với xu thế xã hội hóa.

Trong một thế giới chuyển biến rất nhanh hiện nay, sở hữu lớn, quy mô lớn của một doanh nghiệp hay tập đoàn tương đối khó chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Chúng vận động chậm chạp như những con “khủng long” vì quá nặng nề, to lớn.

Trái lại quy mô sở hữu nhỏ, sản xuất nhỏ của nông dân đôi khi lại là những lợi thế khi chuyển hướng. “Nhỏ là đẹp” - hiện có một triết lý kinh doanh như vậy. Tính linh hoạt của quy mô sản xuất nhỏ là lợi thế cần được nhìn nhận trong kinh tế thị trường hiện đại. Nó không cần nhiều lắm những điều kiện, mà chỉ cần cơ hội; và khi nắm bắt được nhu cầu của thị trường thì nó chuyển dịch hướng sản xuất rất nhanh.

Nông dân Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường, dù ai đó có than phiền “nay trồng, mai chặt” thì họ vẫn tự xoay sở được, thâm canh được trên “mảnh đất của mình” và tiếp tục tìm kiếm cơ hội.

Dĩ nhiên, ai cũng muốn phát triển bền vững và tăng dần quy mô, trình độ kinh doanh cho các hộ nông dân. Nhưng thực tế của kinh tế thị trường cũng xác nhận tính linh hoạt, khả năng ứng phó của họ. Tất cả vẫn trên “mảnh đất nhỏ” ấy của nông dân

Hiện nay vẫn còn tư duy rằng những gì bất cập tiêu cực trong đời sống là gán luôn cho nó tính từ “nông dân” hoặc “kiểu nông dân” mà không phân định rõ: Đó là tình cảm yêu quý tư liệu sản xuất của người nông dân vốn sống bằng lao động của mình hay sự quyến luyến với sở hữu nhỏ? Là tính độc lập, tự chủ về kinh tế hay chủ nghĩa cá nhân?

Là tinh thần thực tế hay chủ nghĩa kinh nghiệm? Là biểu hiện của cuộc sống giản dị hay là biểu hiện của thiếu khát vọng phát triển? Là tình cảm ruột thịt quê hương hay tính làng xã, dòng tộc?...

Phương thức sản xuất nhỏ đã bị thời đại vượt qua, nhưng những kinh nghiệm, những “tri thức bản địa” của nông dân (theo cách diễn đạt của UNDP) không hoàn toàn bị bỏ qua.       

“Đô thị hóa” mới chỉ diễn ra ở những ngôi nhà nông thôn một cách tự phát theo kiểu: “Mái bằng, mái bằng lại mái bằng. Tôi đi như cá lạc trong đăng. Mười năm trở lại làng quê cũ; cả làng là một cục xi măng” (thơ Trần Văn Đăng - Bút Tre). Mà, cái nông dân cần nhất là một đổi mớí tổng thể cả về điều kiện sống và lối sống...

Nông dân hiện đang bị tách rời tương đối khỏi nông nghiệp và nông thôn. Nhiều nghịch lý đã diễn ra từ những sự tách rời ấy. Nông dân mà không còn “yêu đất”, bỏ ruộng vì ruộng đất manh mún không đủ nuôi người.

Họ sẵn sàng từ bỏ nông nghiệp, nông thôn để lên thành thị kiếm việc vì thu nhập khá hơn, ổn định hơn. Khoán hộ chỉ xóa đói giảm nghèo, chứ không thể tiến lên làm giàu được, vì nó mở rộng quyền cho nông dân nhưng không mở rộng được ruộng đất cho họ.

Khó có thể phát triển nền nông nghiệp hữu cơ, hiện đại và bền vững nếu chỉ dựa trên hiện trạng gần 10 triệu hộ nông dân với 76 triệu mảnh ruộng nhỏ lẻ, phân tán. Tích tụ ruộng đất là yêu cầu tự nhiên của nền nông nghiệp lớn hiện nay.   

Nông nghiệp quyết định một vấn đề chiến lược hàng đầu của xã hội là an ninh lương thực quốc gia nhưng chưa được đầu tư xứng đáng.

Mặc dù nông nghiệp cung cấp sinh kế cho 9,53 triệu hộ dân nông thôn và 68,2% số dân (khoảng 60 triệu người), giải quyết gần 50% lao động, hàng năm đóng góp 18 - 22% GDP cho nền kinh tế và 23 - 35% giá trị xuất khẩu; 10 năm gần đây nhất nông nghiệp luôn có thặng dư xuất khẩu (lấy năm 2019 làm ví dụ, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp đạt 41,3 tỷ USD, cao hơn xuất khẩu dầu khí 7 lần). Nhưng nông nghiệp lại được đầu tư ít nhất, hiện chỉ chiếm gần 6% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, hoặc 14% ngân sách nhà nước - đó là nghịch lý.

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa trong nông nghiệp đang là lĩnh vực chậm nhất, ít nhất. Là thị trường trong nước lớn nhất với nhiều tiềm năng nhưng hiện nay chỉ có 7.000 doanh nghiệp làm nông nghiệp/ 650.000 doanh nghiệp cả nước, tỷ lệ gần 12% tổng số.

Dư địa và nhu cầu ứng dụng khoa học công nghệ lớn nhất, nhưng hiện nay việc áp dụng KH&CN các tiêu chuẩn chất lượng quốc gia, quốc tế trong nông nghiệp là lĩnh vực thấp nhất, với chỉ 5% doanh nghiệp nông nghiệp được chứng nhận VietGAP và tương đương.

Là lĩnh vực kinh tế xã hội cần công nghiệp hóa nhất nhưng các tỷ lệ công nghiệp hóa đều thấp nhất. Điển hình là mức độ trang bị động lực cho nông nghiệp của Việt Nam; hiện nay mới đạt mức là 1,6 mã lực (HP)/ha canh tác; thấp hơn nhiều so với Thái Lan (4 HP/ha), Trung Quốc (8 HP/ha), Hàn Quốc (10 HP/ha).      

Nông dân là một trong những người đi đầu trong đổi mới, có nhiều đóng góp quan trọng cho đổi mới, nhưng họ được thụ hưởng không tương xứng, nếu không nói là ít nhất khi so sánh với các giai tầng khác. Cơ sở hạ tầng xã hội của vùng nông thôn kém xa so với đô thị. Việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội hiện nay bất cập nhất là ở nông thôn, đặc biệt là vùng miền núi, vùng sâu vùng xa.         

Công bằng về cơ hội phát triển với nông dân - cụ thể là những gì - vẫn là điều mà chủ trương và chính sách cần quan tâm. Nông dân phải được chuẩn bị cho bước phát triển mới về cơ cấu, trình độ nhân lực và góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng quốc gia.

Quy luật của công nghiệp hóa là sẽ có một quá trình chuyển dịch nhân lực từ nông nghiệp sản xuất nhỏ sang nông nghiệp sản xuất lớn, từ nông nghiệp sang công nghiệp và nhiều nông dân sẽ trở thành công nhân.

Theo đó “nông dân được đào tạo ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực; nông nghiệp hướng tới sản xuất lớn, nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại...” là nhận thức mới phản ánh sự chủ động để đẩy mạnh Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa.

    Tags:
Xem thêm
Thái Nguyên thông qua nghị quyết sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã 2023-2025

Đây là 1 trong 10 nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội được thông qua tại Kỳ họp thứ 18 của HĐND tỉnh Thái Nguyên khóa XIV, nhiệm kỳ 2021-2026.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Kỷ lục 120 món ăn chế biến từ sâm dây tại núi rừng Ngọc Linh

Tại núi rừng Ngọc Linh (huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum) đã chứng kiến các đầu bếp chế biến 120 món ăn từ sâm dây và được xác lập kỷ lục Việt Nam.

Chuyện làm du lịch ở miền núi Phú Thọ: [Bài 1] Đồi chè Long Cốc, nàng tiên không ban cho dân được mấy tiền

'Không mấy ai nhìn ra giá trị của rừng Xuân Sơn, Tân Sơn nên bỏ lỡ cơ hội phát triển du lịch', TS. Ngô Kiều Oanh tiếc rẻ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm