| Hotline: 0983.970.780

Vùng ven biển không có khả năng lấy nước ngọt

Thứ Sáu 27/12/2019 , 13:20 (GMT+7)

Ở các vùng cách biển 30-40km, từ tháng 12/2019 mặn có khả năng vượt quá 4g/l; từ tháng 1/2020 trở đi, các vùng này gần như không có khả năng lấy nước ngọt từ cửa sông.

10-32-47_vung_ven_bien
Khô hạn ở ĐBSCL. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Báo NNVN đăng bài: "Xâm nhập mặn diễn biến phức tạp, khó lường". Theo đó, hạn mặn khốc liệt bởi ảnh hưởng bởi lũ nhỏ năm 2019 đã khiến nhiều vùng bắt đầu gặp khó khăn về nước ngọt. Trong đó, vùng cách biển 30 - 40km gần như không thể lấy nước ngọt từ cửa sông kể từ tháng 1 tới.
 

Dòng chảy về đồng bằng ở mức thấp lịch sử

Theo Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam, mùa mưa năm 2019 trên lưu vực sông Mekong xuất hiện muộn, thời gian mùa mưa ngắn, tổng lượng dòng chảy năm ước tính chỉ ở mức trung bình - thấp. Dòng chảy về ĐBSCL từ đầu mùa khô đến nay giảm nhanh, đang xuống ở mức cực thấp so với trung bình nhiều năm (TBNN) từ 1980 đến nay.

Hai yếu tố thượng lưu quan trọng, chi phối chủ đạo đến nguồn nước, xâm nhập mặn trong mùa khô năm 2019 - 2020 ở vùng ĐBSCL là lượng trữ trong Biển Hồ (Tonle Sap) và dòng chảy đến Kratie (đầu châu thổ Mekong).

Lượng nước tích trữ trong Biển Hồ đến ngày 27/11/2019, ước tính khoảng 14 tỷ m3, thấp hơn gần 22 tỷ m3 so với cùng thời kỳ TBNN, thấp hơn 13 tỷ m3 so với năm 2018 và đang ở mức tương đương so với cùng thời kỳ năm 2015. Do đó có thể dự đoán dòng chảy từ Biển Hồ về đồng bằng trong mùa khô 2019 - 2020 rất hạn chế.

Mực nước bình quân tại trạm Chiang Sean (gần với Trung Quốc, cách trạm Tân Châu - Việt Nam khoảng 2.209km) từ đầu mùa khô đến ngày 27/11/2019 đang ở mức thấp (lịch sử). So với cùng thời kỳ năm 2018, mực nước thấp hơn 1,5m và thấp hơn 1,3m so với TBNN thời kỳ 1980 - 2018, và cũng chỉ đang ở mức tương đương 2015.

Tại trạm Kratie (thuộc Campuchia, trạm đầu châu thổ Mekong), mực nước bình quân từ đầu mùa khô đến ngày 27/11/2019 so với cùng thời kỳ năm 2018 thấp hơn gần 2,1m, thấp hơn 3,3m so với TBNN 1980-2018 và so với cùng kỳ năm 2015 vẫn thấp hơn gần 1,2m.

Như vậy, dòng chảy từ thượng lưu về đồng bằng nước ta trong năm thủy văn nói chung và mùa khô 2019 - 2020 nói riêng dự kiến ở mức thấp lịch sử. Do vậy hạn mặn trên ĐBSCL dự báo cũng sẽ là năm hết sức gay gắt, nghiêm trọng, nhất là đối với vụ đông xuân 2019 - 2020 và nước sinh hoạt tại các vùng ven biển.
 

Ảnh hưởng tới nhiều vụ lúa

Mùa khô năm 2019 - 2020 có dòng chảy nhỏ so với những năm gần đây và so với TBNN; do đó diễn biến mặn tương đối phức tạp (xâm nhập sớm, sâu, biến động bất thường) nhất là vào các ngày triều cường kết hợp mạnh.

Trong khi đó, cũng theo Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam, kết quả dự báo triều năm 2019 - 2020, cho thấy, có một số điểm bất lợi: Đỉnh các tháng 1 - 3 khá cao, thời kỳ triều cao kéo dài trong những tháng lưu lượng về đồng bằng giảm thấp; mùa gió chướng bắt đầu hoạt động ngay từ đầu mùa khô. Đây là các yếu tố góp phần đẩy mặn xâm nhập sâu vào hệ thống kênh, rạch vùng ĐBSCL.

Với những yếu tố bất lợi như trên, ở các vùng cách biển 30-40km, từ tháng 12/2019 mặn có khả năng vượt quá 4g/l; từ tháng 1/2020 trở đi, các vùng này gần như không có khả năng lấy nước ngọt từ cửa sông, gây ra tình trạng thiếu nước cho sản xuất và nước sinh hoạt.

Các vùng cách biển 45 - 65km: Từ tháng 12/2019 đến tháng 4 - 5/2020 có khả năng bị mặn cao (>4g/l) xâm nhập. Nếu mưa đến chậm, xâm nhập mặn có thể kéo dài đến tháng 6/2020. Trong thời kỳ này, vào những đợt triều cường mặn sẽ xâm nhập sâu. Khi triều rút, mực nước thấp có khả năng xuất hiện nước ngọt (trong một ngày, đỉnh triều có thể mặn khá cao, nhưng chân triều có thể độ mặn thấp, có thể lấy nước).

Các vùng cách biển xa hơn 70 - 75km tuy ít gặp xâm nhập mặn 4g/l, nhưng cũng cần cẩn thận trong các đợt triều cường, và vẫn là vùng xâm nhập của nước mặn nồng độ dưới 4g/l, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt.

Với mặn xuất hiện sớm, xâm nhập sâu và kéo dài như trên, những vụ sau đây cần đặc biệt chú ý: Vụ đông xuân 2019 - 2020 chịu ảnh hưởng lớn do thiếu nước tưới, nhất là các vùng ven biển (cách biển đến 40 - 45km), đặc biệt từ tháng 1 trở đi; vụ mùa (vùng tôm-lúa) ở các vùng ven biển đến 30 - 40km có khả năng thiếu nước ngọt từ đầu tháng 12; vụ xuân hè, hè thu 2020 có khả năng bị ảnh hưởng nếu không có mưa sớm.

Một số vùng không có khả năng cấp ngọt, việc nuôi thủy sản (tôm nước lợ) có thể bị thiệt hại hoặc giảm năng suất do nồng độ mặn cao (An Minh, An Biên - Kiên Giang, nam quốc lộ 1A-Bạc Liêu, Thạnh Phú, Ba Tri - Bến Tre ....). Có khả năng thiếu nước ngọt sinh hoạt cho người dân cho vùng ven biển ĐBSCL, đặc biệt là các vùng cù lao cửa sông (Tân Phú Đông - tỉnh Tiền Giang, Hòa Minh - Trà Vinh, Cù lao Dung - Sóc Trăng, các huyện ven biển tỉnh Bến Tre ).

Nhiều địa phương gặp khó về nguồn nước

Tỉnh Bến Tre sẽ gặp khó khăn về nguồn nước ngọt từ tháng 1. Tại các vùng dự án ngọt hóa: Nhật Tảo - Tân Trụ (Long An), Gò Công (dự án Gò Công, Tiền Giang), Trà Vinh (dự án Nam Mang Thít), trong các tháng 3, 4, 5 (nếu không mưa hoặc xả nước thượng lưu) phải tăng cường chuyển nước từ trên xuống theo các kênh dọc trục trong hệ thống.

Cần có kế hoạch nạo vét, tăng cường năng lực chuyển nước của các kênh trục hệ thống và mở cửa lấy gạn hoặc bơm để lấy nước (lúc này nước ngọt trong kênh rất thấp).

Vùng Long Phú - Trần Đề (Sóc Trăng) từ cuối tháng 12 sẽ gặp khó khăn về nước tưới và có khả năng xảy ra hạn trong vùng dự án. Do vậy cần có kế hoạch bơm trữ, vận hành cống hợp lý để tích trữ nước nước ngọt ngay từ thời điểm hiện nay khi ngoài sông nguồn ngọt vẫn còn thuận lợi.

Bên cạnh đó, mặn có khả năng xâm nhập vào Hệ thống Quản Lộ - Phụng Hiệp qua kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp từ các cửa sông Hậu và Sóc Trăng. Ở vùng ranh Sóc Trăng - Bạc Liêu (bán đảo Cà Mau), xâm nhập mặn phụ thuộc rất mạnh vào chế độ vận hành các cống ngọt hóa ven quốc lộ 1 từ Bạc Liêu đi Cà Mau. Các vùng đông Hà Tiên cũng cần chú ý chuẩn bị chống hạn mặn vào các tháng 2, 3, 4 và tháng 5.

Tại TP Vị Thanh (Hậu Giang), mặn có thể xâm nhập với nồng độ đạt đến 2 - 4g/l vào tháng 3, 4, 5 (nếu không mưa). Vùng Vị Thủy (Hậu Giang) cũng cần đề phòng nguy cơ xâm nhập mặn cuối mùa khô.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm