| Hotline: 0983.970.780

Xu hướng mới: Xét nghiệm di truyền trong thai kỳ tầm soát dị tật thai nhi

Thứ Sáu 18/09/2020 , 15:52 (GMT+7)

Xét nghiệm NIPT có độ chính xác lên đến hơn 99%, được xem là lựa chọn tối ưu để giúp mang lại sự an tâm và an toàn cho thai phụ lẫn thai nhi…

Mới đây, Bộ Y tế đã ra quyết định 1807 tiếp tục đưa xét nghiệm NIPT vào Hướng dẫn kỹ thuật chuyên môn về sàng lọc trước sinh để sàng lọc các dị tật bẩm sinh liên quan đến số lượng nhiễm sắc thể của thai nhi.

Từ quyết định này, xét nghiệm NIPT có thể thay thế cho các xét nghiệm sàng lọc sinh hóa trước đây (double test, triple test) và trở thành một bước xét nghiệm quan trọng nên được thực hiện đầu tiên cho tất cả các thai phụ khi có nhu cầu ngay tuần thứ 9-10 của thai kỳ.

Các  chuyên gia đầu ngành như PGS.TS.BS Lê Hồng Cẩm - Giảng viên thỉnh giảng tại Đại học Y Dược TP.HCM; BS.CK1 Nguyễn Vạn Thông - Trưởng khoa Di truyền Y học, BV Hùng Vương TP.HCM; TS. Giang Hoa - Phó Viện trưởng Viện Di truyền Y học - Gene Solutions đã nói gì về vấn đề này?

NIPT trở thành xét nghiệm tầm soát dị tật thai nhi đầu tiên

Theo thống kê, tại Việt Nam mỗi năm có 41.000 trẻ bị dị tật bẩm sinh, 1.800 trẻ bị mắc hội chứng DOWN. Trung bình, cứ 13 phút sẽ có 1 đứa trẻ chào đời mang dị tật bẩm sinh. Nhằm làm giảm tỷ lệ trẻ bị dị tật bẩm sinh, nhiều năm qua, Bộ Y tế đã đưa ra nhiều hướng dẫn kỹ thuật chuyên môn trong thăm khám tiền sản để sàng lọc dị tật di truyền ở thai nhi như các hội chứng Down, Edwards, Patau..., với các phương pháp xét nghiệm thường quy như: siêu âm đo độ mờ da gáy, double test, triple test…

PGS.TS.BS Lê Hồng Cẩm cho biết: “Do các hình thức xét nghiệm sinh hóa truyền thống như double test hay triple test có độ chính xác chưa cao, dẫn đến nhiều trường hợp phải chọc ối không cần thiết, nên NIPT có độ chính xác lên đến hơn 99%, được xem là lựa chọn tối ưu để giúp mang lại sự an tâm và an toàn cho thai phụ lẫn thai nhi”.

Hiện có 2 hướng ứng dụng xét nghiệm NIPT trong chăm sóc thai kỳ.

Hiện có 2 hướng ứng dụng xét nghiệm NIPT trong chăm sóc thai kỳ.

NIPT là xét nghiệm trước sinh không xâm lấn tiên tiến nhất hiện nay trên thế giới, cũng là xu hướng được khuyến cáo bởi các hiệp hội uy tín và đã được sử dụng tại hầu hết các nước trên thế giới.

NIPT giúp tăng tỷ lệ phát hiện bệnh và giảm số ca chọc ối oan, nhưng chi phí cao hơn một chút so với các xét nghiệm sinh hóa truyền thống khác. Dù vậy, đã gọi là bước tiến của y học thì thai phụ có thể cân nhắc sử dụng, đặc biệt là nhóm thai phụ nguy cơ trung bình - cao và những ai có điều kiện.

Nói về những ưu điểm vượt trội của NIPT so với các phương pháp xét nghiệm truyền thống double test, triple test, TS Giang Hoa - Phó Viện trưởng Viện Di truyền Y học - Gene Solutions phân tích: “Sàng lọc sinh hóa: đo những chất sinh hóa trong máu mẹ, từ đó gián tiếp ước tính thai có nguy cơ cao hay thấp mắc dị tật bẩm sinh. Với NIPT thì phát hiện DNA của nhau thai trong máu mẹ bằng kỹ thuật giải trình tự gen thế hệ mới, không xâm lấn. Theo đó, chỉ cần lấy 7ml máu mẹ là có thể phân tích được số lượng nhiễm sắc thể của thai nhi, với độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn”.

TS Giang Hoa nhấn mạnh, hiện công nghệ này đã có thể thực hiện toàn bộ quy trình tại Việt Nam, không cần gửi mẫu ra nước ngoài để phân tích kết quả, nên giúp tối ưu hóa chi phí và thời gian làm xét nghiệm, tạo điều kiện cho nhiều thai phụ có thể tiếp cận được.

Xét nghiệm sàng lọc NIPT đang là lựa chọn tối ưu của các thai phụ.

Xét nghiệm sàng lọc NIPT đang là lựa chọn tối ưu của các thai phụ.

Vậy ai sẽ nên làm xét nghiệm NIPT và thực hiện ra sao? Trả lời câu hỏi này, BS CK1 Nguyễn Vạn Thông cho biết, trên thực tế, NIPT có thể được ứng dụng theo 2 hướng: Một là trên nhóm thai phụ có kết quả xét nghiệm sinh hóa truyền thống ở mức nguy cơ cao (1/51) hoặc trung bình (1/1000). Với nhóm này thì NIPT, vốn có độ chính xác cao đến 99% sẽ giảm nguy cơ phải chọc ối không cần thiết. Nhóm thứ hai là làm NIPT ngay từ đầu, thay thế hoàn toàn cho double test và triple test. Song, thai phụ cần được tư vấn đầy đủ thông tin về mục đích, nguyên lý, những lợi ích cũng như hạn chế của xét nghiệm, những trường hợp không khuyến cáo làm NIPT, cách lấy mẫu, thời gian trả kết quả… để thai phụ và gia đình cân nhắc lựa chọn.

Xét nghiệm các bệnh lặn đơn gen vô cùng quan trọng nhưng dễ bị bỏ sót

Kết quả nghiên cứu từ hơn 895 người Việt Nam tại Viện Di truyền Y học - Gene Solutions trong giai đoạn 2019 - 2020 cho thấy những bệnh lặn đơn gen như tan máu bẩm sinh, thiếu hụt men G6PD, rối loạn chuyển hóa đường galactose… đều là những bệnh có tỷ lệ người lành mang gen bệnh rất cao.

Cứ 30 người có 1 người mang gen bệnh thiếu hụt men G6PD; cứ 87 người thì có 1 người mang gen “dị ứng” sữa mẹ galactosemia; riêng tại Việt Nam mỗi năm có đến 8.000 trẻ chào đời bị tan máu bẩm sinh, trung bình cứ 20 người lành (người hoàn toàn khỏe mạnh) thì có 1 người mang gen bệnh này. 

Điều đáng lưu ý là những người mang gen bệnh lại không có bất kỳ biểu hiện gì bất thường về sức khỏe, đến khi kết hôn với người cũng mang chung gen bệnh thì có 25% nguy cơ sinh con có biểu hiện bệnh. Hậu quả của việc phát hiện bệnh muộn thường rất nặng nề, có thể gây tổn thương não, tử vong cho trẻ nếu chẩn đoán sai...

BS CK1 Nguyễn Vạn Thông lưu ý, dị tật bẩm sinh có nhiều nguyên nhân: di truyền, môi trường, đa yếu tố, và phần lớn là chưa rõ nguyên nhân. Riêng nguyên nhân về di truyền do 3 cơ chế: bất thường số lượng NST, bất thường cấu trúc NST (CNV), bất thường đơn gen hay còn gọi là bệnh đơn gen. Trong đó bất thường số lượng NST sẽ gây ra các dị tật như hội chứng Down, Edwards, Patau. Bất thường cấu trúc NST gây ra tình trạng vi mất đoạn, lặp đoạn cũng gây ra các bất thường đa cơ quan. Còn bất thường đơn gen là gây ra các bệnh đơn gen như tan máu bẩm sinh Thalassemia, rối loạn chuyển hóa đường galactose, thiếu hụt men G6PD... Xét nghiệm gen tầm soát người lành mang gen bệnh (carrier screening) có thể giúp tầm soát và phòng ngừa các bệnh lý do bất thường đơn gen.

Việc xét nghiệm các bệnh lặn đơn gen là vô cùng quan trọng nhưng thường bị bỏ sót.

Việc xét nghiệm các bệnh lặn đơn gen là vô cùng quan trọng nhưng thường bị bỏ sót.

Nếu cả vợ và chồng đều là người lành mang gen bệnh của cùng một bệnh lý di truyền, thì 25% con sinh ra sẽ ở trạng thái đồng hợp tử của gen bệnh, khi đó triệu chứng bệnh sẽ xuất hiện. Hậu quả là thai nhi có thể mất trong bụng mẹ hoặc mất sau khi sinh một thời gian do nhiều bất thường nặng nề của cơ thể.

“Hiện nay có nhiều cách để tầm soát các bệnh đơn gen ở từng thời điểm khác nhau bằng cách làm xét nghiệm gen, gồm trước khi kết hôn, chẩn đoán phôi tiền làm tổ, sàng lọc và chẩn đoán ngay trong thai kỳ và sau sinh”, BS CK1 Nguyễn Vạn Thông cho biết thêm.

Thời gian qua, Viện Di truyền Y học - Gene Solutions là một trong những đơn vị tiên phong về việc cung cấp các giải pháp gen tiên tiến cho người Việt. Trong đó ngoài thành tựu nổi bật là xét nghiệm NIPT triSure, Viện còn triển khai xét nghiệm triSure Carrier sàng lọc 5 bệnh lặn đơn gen phổ biến như tan máu bẩm sinh thể alpha và beta, thiếu hụt men G6PD, rối loạn chuyển hóa đường galactose và Phenylketon niệu.

TS Giang Hoa - Phó Viện trưởng Viện Di truyền Y học - Gene Solutions chia sẻ: “Trước đây, các bước tầm soát những bệnh này (nếu có) chủ yếu được thực hiện ở các bệnh viện lớn, sau khi em bé chào đời. Nhưng hiện nay, tầm soát người lành mang gen bệnh có thể làm trước sinh hoặc trong thai kỳ. Chính vì vậy, Viện đã áp dụng mô hình kết hợp NIPT, chỉ thu máu thai phụ 1 lần nhưng vừa có thể tiến hành sàng lọc dị tật bẩm sinh cho thai do bất thường số lượng NST, đồng thời tầm soát mẹ có phải là người lành mang gen của 5 bệnh di truyền lặn phổ biến nói trên hay không”.

 Theo đó, khi thai phụ có kết quả sàng lọc dương tính với 1 trong 5 bệnh khảo sát, người chồng sẽ được tư vấn và hỗ trợ làm xét nhiệm gen để xác định có phải là người lành mang gen của cùng bệnh không. Nếu kết quả cũng dương tính thì con có 25% khả năng mắc bệnh. Khi đó, cùng với các bệnh viện, Viện Di truyền Y học - Gene Solutions sẽ tiếp tục hỗ trợ xét nghiệm gen cho thai/trẻ sau sinh để khẳng định khả năng mắc bệnh.

“Tất cả những hỗ trợ này hoàn toàn không thu phí để giúp phát hiện sớm những bệnh di truyền lặn phổ biến cho trẻ, từ đó có thể can thiệp hoặc điều trị kịp thời hiệu quả”, TS Giang Hoa thông tin thêm.

Xem thêm
Di căn gan chiếm 25% trường hợp ung thư đại trực tràng

TP.HCM Di căn gan là di căn xa thường gặp nhất, chiếm 25% các trường hợp ung thư đại trực tràng. Mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng 16.000 ca ung thư đại trực tràng mới.

Điều trị suy tim sung huyết

Mục tiêu của điều trị suy tim sung huyết là để tim đập hiệu quả hơn giúp đáp ứng nhu cầu năng lượng của cơ thể.

Đối tượng nào cần xét nghiệm tiền đái tháo đường?

Bộ Y tế khuyến cáo, phụ nữ đã được chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ thì cần phải theo dõi lâu dài, thực hiện xét nghiệm ít nhất 03 năm/lần.

Kháu Vài Lèng bị giả mạo, Lương y Mạc Văn Minh kêu cứu

Kháu Vài Lèng, bài thuốc điều trị sinh lý nam giới của Lương y Mạc Văn Minh đang bị các đối tượng xấu làm giả, bán trục lợi, ảnh hưởng đến uy tín sản phẩm.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm