Một đời người, một rừng cây
Sáng tháng Ba bầu trời âm u, mưa rả rích nhưng vì trót hẹn với các hộ gia đình nên chúng tôi vẫn phải ngược ngàn đến xã Sơn Kim I, huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh).
Trước khi lên rừng, kiểm lâm viên địa bàn Đoàn Doanh Tuyên (Hạt Kiểm lâm Hương Sơn) cảnh báo: “Các phóng viên chuẩn bị tinh thần, thời tiết này đi rừng sên (vắt) bốc cả nắm đấy nhé”.
Dù có phần ghê sợ nhưng nghĩ đến cảnh được “mục sở thị” những cây lim tồn tại cả trăm năm chúng tôi lại hừng hực khí thế. Đóng áo quần bảo hộ, mang ủng, đeo máy ảnh vượt gần 2 km đường đất đỏ “mỡ gà” chúng tôi đặt chân đến độ cao gần 200 m so với mực nước biển.
Trước mắt, cả rừng cây bản địa như lim, kiền kiền, dổi, chua, dẻ… nằm san sát nhau, xếp tầng tầng, lớp lớp. Trong đó, có nhiều gốc lim xanh tuổi đời vượt qua con số 100, chu vi lên đến 300 cm, vỏ sần sùi, khép tán, đứng sừng sững giữa đại ngàn.
Đáng nói, chủ rừng của những gốc lim này không phải doanh nghiệp hay tổ chức nhà nước mà là những cá nhân, hộ gia đình đang nằm trong diện khó khăn, kinh tế eo hẹp.
Năm 1980, ông Trần Ngọc Lâm (sinh năm 1960), thôn Khe Năm, xã Sơn Kim I gia nhập quân ngũ, công tác chính thức tại Quân Khu 4, còn vợ ông - bà Trần Thị Đào (SN 1961) làm công nhân tại Lâm trường Hương Sơn (nay là Cty TNHH MTV lâm nghiệp và dịch vụ Hương Sơn).
Lúc bấy giờ, kiếm được việc làm với mức thu nhập ổn định như ông bà Lâm Đào không hề dễ dàng. Tuy nhiên, bất cập là cảnh vợ chồng xa cách, khó khăn trong việc nuôi dạy con cái.
Cuối năm 1990, chính quyền năm lần bảy lượt vận động người dân thôn Khe Năm nhận rừng để chăm sóc, bảo vệ nhưng chẳng ai ngó ngàng. Ông Lâm vì muốn ở gần vợ con nên đứng ra nhận gần 27 ha rừng ở tiểu khu 51, thôn Khe Năm trong đó, rừng tự nhiên 21,8 ha; rừng trồng 5 ha.
“Lúc bấy giờ cả khu rừng gần như không còn gì, cây gỗ nào chu vi trên 100 cm đều bị khai thác hết. Ban đầu chúng tôi nhận rừng vì nghĩ khi cần que củi, cây nứa có để chặt phục vụ nhu cầu trong gia đình nhưng về sau mới thấm thía giá trị của rừng là vô giá”, ông Lâm trải lòng.
Người đàn ông tuổi lục tuần kể lại, khoảng năm 1990 – 1992, rừng bị tổn thương nghiêm trọng do quá trình khai thác vô tội vạ nên mùa hè giếng nước của các hộ dân trong thôn cạn trơ đáy, nhiều hộ đào giếng sâu hơn 20 m nhưng vẫn không có giọt nước nào. Mọi sinh hoạt phải dựa vào nước trời và các khe suối.
Nhận thấy tác hại của việc mất rừng quá nghiêm trọng, ngoài bảo vệ nghiêm ngặt diện tích cây rừng hiện có, gia đình ông Lâm vay vốn trồng keo trên diện tích rừng sản xuất và làm giàu diện tích rừng tự nhiên bằng các loài cây bản địa như lim xanh, dổi, kiền kiền... bình quân mỗi năm ông trồng 3.000 cây.
Hiện hàng vạn cây bản địa trồng từ năm 1992 – 1993 đã phát triển đạt chu vi trên 60 cm; tỷ lệ cây sống hàng năm đạt trên 60%.
“Nhờ bảo vệ tốt rừng và thảm thực vật nên hơn chục năm nay dù hạn hán gay gắt người dân Khe Năm cũng không bao giờ thiếu nước sinh hoạt. Chất lượng nước từ các khe suối được chuyên gia Nhật Bản đánh giá rất sạch”, bà Trần Thị Đào tiếp lời chồng.
Theo rà soát, đánh giá của lực lượng chức năng, trong diện tích rừng hộ ông Lâm quản lý có khoảng 150 cây lim xanh có chu vi từ 150 – 300 cm và hàng nghìn cây chu vi dưới 150 cm. Trong đó, nhiều gốc tồn tại hơn 100 năm, nhiều hơn tuổi đời của chính ông.
Cạnh rừng hộ ông Lâm, đại gia đình anh Lưu Trọng Bằng (46 tuổi) cũng chăm sóc, bảo vệ rất hiệu quả gần 8 ha rừng tự tiên được giao từ năm 1992.
Anh Bằng cho hay, sau khi bố mẹ anh qua đời, anh nhận “thừa kế” chăm sóc diện tích rừng nói trên với hai bàn tay trắng. Cuộc sống khó khăn, chật vật nhưng vì nhớ lời căn dặn của bố mẹ “giữ rừng là giữ môi trường sống cho con cháu” nên gần ba thập kỷ qua, gia đình anh chưa bao giờ chặt một cây gỗ đem bán.
Thậm chí, năm 1997 khi bắt quả tang một nhóm lâm tặc đang chặt trộm gỗ dổi trong rừng, gia đình anh còn bị các đối tượng chửi bới, dọa hành hung.
“Hàng năm chúng tôi chỉ trồng dặm làm giàu rừng và sẻ phát chăm sóc. Công tác bảo vệ rừng cực nhọc, nguy hiểm như vậy nhưng chính sách hỗ trợ của nhà nước dành cho đối tượng như chúng tôi chưa có nên rất thiệt thòi”, anh Bằng nói.
Đồng quan điểm, ông Trần Ngọc Lâm cho rằng, việc Chính phủ siết chặt quản lý, bảo vệ rừng tự nhiên, đặc biệt là rừng đầu nguồn biên giới Việt – Lào như xã Sơn Kim I là rất đúng đắn.
Tuy nhiên, quy định cũng cần căn cứ thực tiễn để xây dựng, như đặc thù ở thôn Khe Năm, 100% dân số sống dựa vào rừng nhưng rừng không được tác động, cũng không nhận được một chính sách hỗ trợ công bảo vệ nào thì rất bất cập.
Chính phủ cần nghiên cứu, cho phép hộ gia đình tận thu đối với những cây gỗ bị chết do yếu tố thiên tai. Như vậy vừa khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vừa tạo thu nhập cho người dân, tăng thêm động lực cho hộ gia đình giữ rừng.
“Rừng là nhà, nhà là khách sạn”
Câu chuyện giữ rừng của gia đình ông Lâm, anh Bằng đã tạo thành sức lan tỏa cho cả cộng đồng dân cư ở thôn Khe Năm, xã Sơn Kim I.
Còn nhớ, khoảng gần 10 năm về trước, khi ý thức giữ rừng của người dân còn hạn chế, để bảo vệ diện tích rừng được giao, ông Lâm cùng 10 hộ dân trong thôn thành lập Chi hội bảo vệ rừng bền vững, phối hợp lực lượng Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, chính quyền địa phương thay phiên nhau tuần tra, canh gác rừng, hỗ trợ xử lý lâm tặc chặt trộm gỗ.
Hay thời điểm tháng 4 đến tháng 7 âm lịch hàng năm, nhiều hộ dân xem rừng là nhà, nhà là khách sạn. Cứ 5 – 6h sáng đem theo cơm đùm cơm nắm, nước, sữa lên rừng lấy mật ong và “canh” lửa, đề phòng cháy rừng, đến khoảng 17 – 18h chiều mới về nhà.
Riêng hộ ông Lâm, nhờ siêng năng, chịu khó, mỗi năm gia đình tận thu được từ rừng (lấy mật ong và cây dược liệu) trên dưới 70 triệu đồng. Đặc biệt, 5 ha keo sắp đến kỳ thai thác, ước sẽ mang lại hàng trăm triệu đồng cho gia đình ông.
Ông Đoàn Doanh Tuyên, Kiểm lâm viên địa bàn đánh giá, gia đình ông Lâm, anh Bằng không chỉ là những hộ dân điển hình trong công tác quản lý, chăm sóc, bảo vệ rừng tự nhiên đầu nguồn mà còn tiên phong thay đổi tư tưởng sống dựa vào khai thác rừng của đại bộ phận dân Sơn Kim I.
Họ đã chủ động chuyển hướng sang sản xuất rừng gỗ lớn, nâng cao giá trị gia tăng của chuỗi lâm sản để đảm bảo tăng trưởng bền vững.
Theo ông Tuyên, trước đây dù lực lượng chức năng siết chặt cỡ nào thì đâu đó cũng có một số diện tích rừng bị “chảy máu”. Tuy nhiên, độ dăm năm trở lại đây, ý thức bảo vệ rừng của bà con nâng lên rõ rệt đã giảm áp lực tuần tra, kiểm soát cho lực lượng chức năng. Bây giờ, các vụ việc khai thác lâm sản trái phép trên địa bàn xã Sơn Kim I nói riêng, huyện Hương Sơn nói chung gần như đã được ngăn chặn triệt để.
Vợ chồng ông Lâm, bà Đào nói rằng, họ sẽ gắn bó với khu rừng cho đến khi nhắm mắt, xuôi tay. Mục đích là để bảo vệ môi trường sống, bảo vệ quê hương, giống như lời bài hát “Một đời người, một rừng cây” của nhạc sỹ Trần Long Ẩn: Cây đã mọc từ thuở nào/Trên đồi núi thật cằn khô/Cây có hiểu vì sao/Chim thường kéo về làm tổ/…/Có một cây là có rừng/Và rừng sẽ lên xanh rừng giữ đất quê hương!