| Hotline: 0983.970.780

Chè Nhật khoe hương

Thứ Năm 16/07/2020 , 14:14 (GMT+7)

Từ trăm năm nay, chè Thái Nguyên đã ghi dấu ấn “Đệ nhất danh trà” với sản phẩm chè búp từ giống chè trung du trồng hạt.

Dù được làm heo kiểu Việt nhưng chè Nhật vẫn có giá trị cao. Ảnh: Đồng Văn Thưởng.

Dù được làm heo kiểu Việt nhưng chè Nhật vẫn có giá trị cao. Ảnh: Đồng Văn Thưởng.

Chuẩn “hàng Nhật xách tay”

Hiện, có thêm hàng chục giống chè mới đã thành đặc sản của các vùng chè. Trong đó đáng kể nhất là cây chè Nhật, gắn bó với người làm chè 30 năm nay và vẫn khẳng định chất lượng cùng hiệu quả kinh tế.

Cùng với Khu Gang thép Thái Nguyên đại diện cho khu vực công nghiệp, Nông trường chè Sông Cầu (huyện Đồng Hỷ) là niềm tự hào của tỉnh Thái Nguyên về làm ăn lớn theo mô hình kinh tế tập trung.

Thành lập năm 1961 với nòng cốt là những cán bộ công nhân ưu tú từng tham gia xây dựng công trường khu Gang thép Thái Nguyên, Nông trường sản xuất nông nghiệp theo phương thức công nghiệp hiện đại nhất thời bấy giờ, sản phẩm chủ chốt là chè xuất khẩu.

Năm 1967, thị trấn Nông trường Sông Cầu thuộc huyện Đồng Hỷ được thành lập. Theo dòng chảy cuộc sống, nông trường dần được chuyển đổi thành xí nghiệp Công Nông nghiệp chè Sông Cầu năm 1985, rồi  đổi thành Công ty chè Sông Cầu 10 năm sau đó.

Thời hưng thịnh, Công ty Chè Sông Cầu là doanh nghiệp lớn của Tổng công ty chè Việt Nam, có hai nhà máy với công suất chế biến 50-60 tấn/ngày. Với vùng nguyên liệu đến hơn 1.300ha, trong đó gần 500 ha chè do Công ty đầu tư tập trung, hàng năm cung cấp cho các nhà máy trên 2.500 tấn chè búp tươi, trên  800ha do công nhân và nhân dân tự đầu tư trồng mới, hàng năm cung cấp cho các nhà máy trên dưới 5.000 tấn chè búp tươi.

Các dây chuyền sản xuất hiện đại nhất thời bấy giờ được đưa vào sử dụng, gồm 2 dây chuyền sản xuất chè đen công suất 16 tấn chè búp tươi/ngày, hàng năm sản xuất ra 700 tấn chè đen các loại; 1 dây chuyền chế biến chè xanh theo công nghệ truyền thống, công suất 10 tấn chè búp tươi/ngày, hàng năm sản xuất ra 300 tấn chè xanh các loại. Đặc biệt là dây chuyền thiết bị đồng bộ chế biến chè xanh Nhật Bản hiện đại, công suất 12 tấn chè búp tươi/ngày.

Năm 1991, những cây chè Nhật đầu tiên được các chuyên gia Nhật “xách tay” theo đường hàng không sang trồng thử nghiệm tại Nông trường. Đây là giống chè Lakatamidori, thuộc hàng có phẩm chất cao nhất trong số các giống chè trồng tại Nhật Bản, với hương vị đặc sắc và hoàn toàn không gây mất ngủ.

Cây chè Nhật hợp thổ nhưỡng, sinh trưởng tốt và chất lượng đảm bảo, được các kỹ sư nhanh chóng giâm cành nhân giống mở rộng diện tích lên tới 20ha. Chè Nhật được phía đối tác thu mua toàn bộ sản phẩm búp tươi, chế biến thành chè dẹt và cung cấp cho thị trường Nhật Bản lên tới 500 tấn/năm

Những người làm chè lâu đời ở xứ chè đều công nhận chè Nhật thực sự là giống chè tốt. Hương vị thuần của loại chè này dễ khiến nhầm tưởng là chè Tân Cương được ướp sen tươi. Cùng với hương thơm dịu mát, nước chè rất trong xanh, vị chát rất dịu và ngọt sâu. Chè Nhật còn hơn các loại chè khác ở chỗ không gây mất ngủ.

Làm chè Nhật theo kiểu Việt

Ông Hoàng Văn Thủy (55 tuổi, Trưởng Ban Quản lý Làng nghề chè kiêm Tổ trưởng tổ dân phố 5 kiêm Tổ trưởng tổ chè VietGAP) là thế hệ thứ hai của vùng chè Sông Cầu.

Cha đẻ ông Thủy là cụ Hoàng Đình Bá là một trong những người đặt nền móng của Nông trường chè quốc doanh Sông Cầu vào năm 1962, chuyên sản xuất chè trung du truyền thống.

Ông Hoàng Văn Thủy - một trong những người đầu tiên được hướng dẫn trồng giống chè Nhật tại xóm 5, thị trấn Sông Cầu. Ảnh: Đồng Văn Thưởng.

Ông Hoàng Văn Thủy - một trong những người đầu tiên được hướng dẫn trồng giống chè Nhật tại xóm 5, thị trấn Sông Cầu. Ảnh: Đồng Văn Thưởng.

Chính ông được chứng kiến các chuyên gia Nhật mang giống chè mà họ tự hào là ngon bậc nhất nước Nhật sang trồng khảo nghiệm trên diện tích khoảng 1ha ngay sau trụ sở văn phòng của xí nghiệp. Sau đó cũng chính ông Thủy là một trong những người đầu tiên được hướng dẫn trồng giống chè này tại xóm 5.

Vào năm 1996, lúc này đã không còn là nông trường mà trở thành công ty, diện tích chè đã  được giao khoán cho các hộ nông trường viên năm xưa để họ chủ động sản xuất.

Ông Thủy nhớ lại: Phía Nhật đầu tư toàn bộ cây giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và hướng dẫn kỹ thuật, đồng thời cam kết bao tiêu sản phẩm nên nhiều hộ đã đăng ký trồng chè Nhật. Kỹ sư Nhật tận tình hướng dẫn bà con quy trình chăm bón nghiêm ngặt lắm, chè thu hái theo kỹ thuật 1 tôm 2 lá. Toàn bộ số chè này được họ chế biến riêng thành các bánh chè theo kiểu người Nhật ưa chuộng. Đầu những năm 2000 là thời kỳ “hoàng kim” của cây chè Nhật vì làm ra đến đâu đều được thu mua toàn bộ búp tươi, diện tích chè Nhật của xóm lên tới 15ha, chiếm 1/3 tổng diện tích chè lúc đó.

Nghề chè Sông Cầu dường như đã khởi sắc trở lại, nhất là sau năm 2011, thị trấn nông trường Sông Cầu đã trở thành thị trấn Sông Cầu. Mỗi hộ dân bắt đầu quen với việc tự sản xuất, tự tiêu thụ sản phẩm chứ không còn “sẵn nong sẵn né” như hồi sản xuất cho Công ty. Vậy nên, ngoài việc đầu tư chăm sóc diện tích chè Nhật đã có, nhiều hộ trong xóm đã tự bỏ vốn đầu tư trồng mới: Gia đình anh Nguyễn Văn Hùng trồng 8 sào, nay đã được thu hái. Anh Trương Công Phòng cũng mới trồng 6 sào.

Sau này, hoạt động sản xuất của Công ty rơi vào khó khăn, mất nhiều thị trường trong đó có công ty liên kết sản xuất tiêu thụ chè Nhật, song các hộ dân vẫn tiếp tục duy trì vườn chè, thu hái và chế biến thành sản phẩm chè búp khô thông thường.

Ông Thủy cho rằng nếu nói về chất lượng, thì trong hơn chục giống chè đang được các hộ trong xóm sản xuất thì chè Nhật là nhất.

Nói về năng suất, thời gian trổ búp của chè Nhật khá ngắn, chỉ cho thu hái từ tháng 3 đến tháng 9, cả năm khoảng 6 lứa rồi chè rơi vào trạng thái “ngủ đông”, mỗi sào chè được 12-15kg búp khô, trong khi sản lượng chè lai lên tới 20kg.

Đổi lại, nhờ chất lượng tốt, chè Nhật bán được giá cao gấp nhiều lần chè lai. Như nhà ông Thủy, có những khách hàng gắn bó đến 30 năm nay, chỉ uống duy nhất chè Nhật, cao điểm nhất chè Nhật lên tới 800 nghìn đồng/kg.

Cùng với chè Trung du và 6 giống chè khác được đăng ký nhãn hiệu chè xóm 5,  giá trị của chè Nhật đã được khẳng định.

Tuy nhiên, người làm chè xóm 5 khá ngậm ngùi vì chè Nhật không bao giờ được “ỏ ê” gì trong khi các loại chè khác đều được nhà nước hỗ trợ phân bón.

Những năm gần đây, toàn bộ chè Nhật giống cung cấp cho bà con đều lấy từ vườn chè Nhật 25 tuổi của gia đình chị Vũ Thị Vân, người có đôi "Bàn tay Vàng"  được tôn vinh tại Festival Trà Quốc tế Thái Nguyên năm 2011. Mỗi khi cần cắt cành ươm giống, nhà chị Vân đều vui vẻ “hy sinh” cả một lứa chè không thu hái.

Chị Vân cũng là hộ tiêu biểu về làm chè của xóm với tiêu chí làm ít nhưng chất lượng và bán giá cao, phần lớn diện tích chè của gia đình chị là chè Nhật.

Theo con mắt của người làm nghề, chị Vân thấy chè Nhật là giống chè dễ trồng,  búp nhỏ và mỏng nên dễ sao sấy, chất chè ngon và dễ bán. Cây chè Nhật đã chứng tỏ hiệu quả suốt 30 năm nay chứ không phải ngày một ngày hai. Chính vì lẽ đó, chè Nhật đã trở thành một phần của mảnh đất này và xứng đáng được tôn vinh.

Xem thêm
Bò 3B mang tới hi vọng cho người dân miền núi

QUẢNG TRỊ Người dân hi vọng bò 3B sẽ là đối tượng nuôi mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, một số hộ dự kiến mở rộng chăn nuôi sau khi kết thúc hỗ trợ.

Tiêm phòng dại vì cộng đồng

Chương trình ‘Tiêm phòng dại vì cộng đồng’ lần 4 vừa được triển khai tại Đức Huệ, Long An, Những năm qua, chương trình đã giúp nâng cao tỷ lệ tiêm phòng trên địa bàn.

Hơn 35.000m2 nhà màng ở Mộc Châu được hỗ trợ nâng cấp, cải tạo

SƠN LA Dự án ‘Nông nghiệp thông minh vì thế hệ tương lai’ hỗ trợ 34 hộ gia đình ở Mộc Châu cải tạo và tối ưu hóa 35.420m2 nhà màng, nhà kính.