Sắn được trồng chủ yếu trên đất dốc, nghèo dinh dưỡng
Sắn được xem là cây dễ trồng, ít kén đất, ít vốn đầu tư, phù hợp với nhiều vùng sinh thái khác nhau và điều kiện nông hộ của đồng bào vùng cao. Sắn được sử dụng làm lương thực cho người và thức ăn chăn nuôi, đặc biệt được sử dụng phổ biến làm nguyên liệu cho nhà máy, cơ sở, làng nghề chế biến thực phẩm.
Theo báo cáo của Cục Trồng trọt, năm 2023, tổng diện tích sắn toàn quốc đạt hơn 511.000ha, trong đó diện tích sắn các tỉnh phía Bắc là 156.000ha (chiếm hơn 30% tổng diện tích); năng suất bình quân đạt 147,2 tạ/ha, sản lượng đạt 2,3 triệu tấn.
Sắn và sản phẩm từ sắn là một trong 13 sản phẩm nông sản chủ lực xuất khẩu của Việt Nam. Nước ta cũng là nước xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn đứng thứ 3 thế giới sau Thái Lan và Campuchia, đứng thứ 2 thế giới về kim ngạch xuất khẩu chỉ sau Thái Lan.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, 5 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn đạt gần 1,3 triệu tấn, trị giá hơn 570 triệu USD. Giá xuất khẩu bình quân của sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 452,9 USD/tấn, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Mặc dù vậy, hiện nay phần lớn diện sắn tại các tỉnh miền núi phía Bắc được trồng chủ yếu trên đất dốc, đất nghèo dinh dưỡng, địa hình chia cắt mạnh, đất đai bị suy thoái do xói mòn, rửa trôi, đất đai bị hạn hán.
Ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết, việc trồng sắn của người dân nhiều địa phương còn mang tính tự phát, diện tích phân tán, chưa hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, tập trung quy mô lớn. Tại nhiều nơi, quy trình sản xuất sắn chưa theo chuỗi liên kết gắn với bao tiêu sản phẩm, phải qua nhiều khâu trung gian, hiệu quả kinh tế thấp nên người dân ít quan tâm đầu tư.
Trình độ canh tác sắn giữa nông dân các vùng chưa đồng đều, nhất là ở vùng sâu, vùng xa nông dân vẫn trồng sắn theo tập quán quảng canh, sử dụng giống địa phương, gần như không hoặc ít đầu tư phân bón, chưa chú trọng các biện pháp bảo vệ và duy trì dinh dưỡng đất cũng như chế độ nước tưới cho cây sắn dẫn đến tình trạng đất trồng sắn bị cạn kiệt dinh dưỡng và trồng sắn cho năng suất, chất lượng tinh bột thấp.
Trồng sắn xen cây họ đậu, tạo đường băng để cải thiện đất
Sơn La là tỉnh có diện tích đất canh tác lớn, cây sắn phù hợp với điều kiện tự nhiên ở đây bởi dễ trồng, ít sâu bệnh hại, không đòi hỏi cao về kỹ thuật cũng như đầu tư, phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân, nhất là các hộ ở vùng sâu, vùng xa.
Theo bà Cầm Thị Phong, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sơn La, phần lớn diện đất trồng sắn trên địa bàn tỉnh là đất dốc (trên 80% diện tích đất tự nhiên). Địa hình chia cắt mạnh, mùa mưa lớn, tập trung, dẫn đến đất đai bị suy thoái do xói mòn, rửa trôi mạnh; diện tích sắn trồng nhỏ lẻ manh mún, không tập trung thành những vùng chuyên canh, năng suất, giá trị sản xuất sắn chưa cao.
Năm 2023, diện tích trồng sắn toàn tỉnh Sơn La đạt gần 43.000ha, giảm hơn 4.000ha so với năm trước. Diện tích sắn giảm do thời điểm trồng gặp nắng nóng, khô hạn kéo dài khiến nhiều diện tích mới trồng bị chết vì thiếu nước, một phần diện tích trước đây trồng sắn được chuyển sang trồng ngô và cây hàng năm khác.
Những năm qua, tỉnh Sơn La đã phối hợp với các ngành chức năng đưa các tiến bộ kỹ thuật về giống và quy trình canh tác vào sản xuất sắn bền vững trên đất dốc như: Trồng trên đất có bề mặt được che phủ bằng tàn dư thực vật, trồng băng cỏ, băng cây trồng..., áp dụng cơ giới hóa để phát triển bền vững diện tích sắn, đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy, cơ sở chế biến sắn, tăng giá trị sản xuất cho ngành hàng sắn.
Điển hình như mô hình canh tác sắn bền vững áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh, trồng xen canh cây họ đậu hoặc tạo băng do Trung tâm Khuyến nông tỉnh Sơn La triển khai trên diện tích 31,5ha; mô hình sử dụng giống sắn KM94 và trồng xen giống lạc L14, lạc địa phương và đậu tương ĐT84 của 35 hộ nông dân ở các huyện Mường La, Mai Sơn tham gia.
Qua đánh giá, năng suất sắn củ tươi đạt trung bình 30 tấn/ha, trong khi sắn trồng đại trà năng suất trung bình đạt 25 tấn/ha. Đối với cây trồng xen canh, năng suất lạc và đậu tương đạt từ 2,5 - 2,8 tạ/ha, ngoài ra còn cho năng suất chất xanh từ thân, lá, rễ trung bình 43 tạ/ha, góp phần cung cấp nguồn hữu cơ cải tạo đất, góp phần chống xói mòn, hạn chế rửa trôi bề mặt, tăng độ phì cho đất, cải thiện môi trường sinh thái.
Kỹ thuật trồng xen cỏ giúp tăng năng suất sắn, giảm xói mòn đất
Tại tỉnh Yên Bái hiện có diện tích sắn gần 8.000ha, được trồng tập trung phục vụ nguyên liệu cho 2 nhà máy chế biến tại huyện Văn Yên và Yên Bình.
Tuy nhiên, diện tích trồng sắn giảm dần từ năm 2014 đến nay. Nguyên nhân bởi người dân chuyển hướng sang trồng một số cây trồng khác như quế, keo, cây ăn quả... Ngoài ra do sản xuất chuyên canh trên đất dốc nhiều năm, bộ giống cũ, nhiều sâu bệnh như bệnh thối gốc, thối củ gây hại nên diện tích, năng suất và sản lượng sắn cũng suy giảm.
Ông Nguyễn Đức Điển, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Yên Bái thông tin, thời gian qua, tỉnh đã phối hợp với các cục, viện, trung tâm thuộc Bộ NN-PTNT để thực hiện các đề tài khoa học, mô hình thử nghiệm phát triển bền vững ngành sắn.
Điển hình như mô hình canh tác sắn bền vững trên đất dốc thực hiện tại xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình. Đây là một trong những thử nghiệm các loại hình nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu do Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) triển khai tại Việt Nam.
Sau một năm thí điểm triển khai dự án, những đường băng cỏ có tác dụng rõ rệt trong việc chống xói mòn, rửa trôi, cải thiện môi trường đất, giúp năng suất sắn tăng 20% so với trước khi thực hiện, đạt bình quân 30 tấn/ha, năng suất cỏ đạt 30 - 40 tấn thức ăn xanh/ha/năm.
Trong giai đoạn 2016 - 2019, huyện Văn Yên tiếp tục thực hiện Đề án canh tác sắn bền vững trên đất dốc với các biện pháp tổng hợp như trồng cây lâm nghiệp trên đỉnh đồi, san gạt đường băng, trồng băng cốt khí, cỏ passpalum, trồng xen các loại cây họ đậu, bón phân hữu cơ vi sinh, thâm canh giống năng suất cao... Từ đó năng suất sắn tăng 20 - 25% so với trồng đại trà, hiệu quả kinh tế đạt 40 - 50 triệu đồng/ha. Đồng thời giúp hạn chế xói mòn, rửa trôi đất, cân bằng dinh dưỡng trong đất.
Tại hội nghị sản xuất sắn bền vững trên đất dốc tại Yên Bái được tổ chức ngày 9/8 vừa qua, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hoàng Trung nhấn mạnh, sắn là một trong các cây trồng thuộc danh mục sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia, có giá trị xuất khẩu cao, đứng thứ 3 sau cà phê, lúa gạo.
Trong 5 năm trở lại đây, tinh bột sắn và sắn lát có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD và sắn được xem là cây dễ trồng, ít kén đất, ít vốn đầu tư, phù hợp với nhiều vùng sinh thái khác nhau và điều kiện kinh tế nông hộ đồng bào vùng cao.
Chính vì vậy, ngành chức năng và các địa phương cần tiếp tục chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong canh tác sắn trên đất dốc nhằm tăng năng suất, chất lượng, sản lượng sắn, đáp ứng nhu cầu chế biến, xuất khẩu. Đồng thời, có những giải pháp hiệu quả trong liên kết tiêu thụ, chế biến, xuất khẩu, phát triển ngành sắn bền vững gắn với bảo vệ tài nguyên đất, chống xói mòn, rửa trôi, sạt lở đất và cải thiện môi trường sinh thái.
Từ năm 2019 - 2021, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) đã thực hiện dự án “Xây dựng mô hình canh tác bền vững trên đất dốc" với cây trồng chính là ngô và sắn tại 2 tỉnh Yên Bái và Phú Thọ. Mô hình đã xây dựng 150ha sắn trồng xen giống cỏ Mombassa tạo thức ăn chăn nuôi và góp phần hạn chế rửa trôi, xói mòn đất. Kết quả cho thấy, hiệu quả kinh tế tăng 11 - 24%, tỷ lệ xói mòn đất giảm từ 30 - 85%.