Nhưng bây giờ, về vùng đồng bào thiểu số ở huyện biên giới Lộc Ninh (Bình Phước), thấy bầu không khí đã trong lành, những ngôi nhà không còn “lầy lội” bởi chất thải từ các loại vật nuôi nữa. Bởi những đàn gia súc đã được cho “ra riêng”.
Ám ảnh ngày xưa…
Về xã Lộc Hòa (huyện Lộc Ninh), tôi được anh Nguyễn Xuân Cường, Phó Chủ tịch xã, dẫn đi một vòng quanh xã để thấy một trong những thay đổi lớn và quan trọng ở vùng dân cư là đồng bào thiểu số (S’tiêng, Khmer chiếm đa số, còn lại là một số dân tộc khác). Đó chính là việc di dời những chuồng trại gia súc, gia cầm từ dưới sàn nhà hay sát vách, tường nhà ra xa.
Anh Cường cho biết, Lộc Hòa có đến hơn 2/3 dân số là đồng bao thiểu số, trong đó phần lớn là đồng bào S’tiêng. Từ bao đời nay, người dân vẫn có thói quen ở chung với vật nuôi, từ gà vịt, ít ô nhiễm hơn đến trâu bò, heo.
“Nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới sàn nhà rất mất vệ sinh, mùa nắng bốc mùi hôi thối, mùa mưa lại càng bẩn hơn. Do nền sàn không được xây bờ xung quanh nên mưa xuống nước chảy lênh láng, cuốn theo phân trâu, bò, heo tràn ra ngoài. Vô cùng mất vệ sinh. Ngay cả nước giếng ăn cũng có mùi hôi, người không quen không dám uống”, anh Cường nói.
Già làng Điểu Vem, dân tộc S’tiêng, năm nay 60 tuổi, ở ấp 8B, người được bà con trong làng “chuyện gì cũng đến hỏi ý kiến”, nói về tập tục sống chung với vật nuôi: “Có nhiều lý do. Thứ nhất là bà con ít hiểu biết, ngày xưa thường sống ở những vùng hẻo lánh, không tập trung. Bây giờ mới đông đúc vậy chứ hồi đó mỗi nhà có khi cách nhau cả cây số. Xung quan toàn rừng, cây cối thôi. Mà ngày xưa thì thú rừng nhiều, có cả cọp beo, nó thường rình bắt vật nuôi của mình, nên nhốt chung, có hơi người thú rừng nó cũng sợ. Thứ 2 là nhà sàn mình ở trên, nhốt vật nuôi ở dưới, đỡ tốn công… làm chuồng”.
“Thế nhốt lợn, trâu bò chung với người như vậy không thấy mùi hôi, ô nhiễm, bệnh tật sao?”, tôi hỏi. “Có chứ, hưng ở chung với chúng lâu ngày quen mùi rồi. Còn bệnh tật thì mọi người nghĩ là do thần linh, chứ không phải do ô nhiễm, độc hại. Nên mỗi khi bệnh tật lại gọi thầy lang đến cúng. Nhưng mà không hết được. Sau này, được cán bộ, chính quyền chỉ cho, mọi người mới biết”.
Tôi hỏi tiếp: “Biết rồi sao giờ bà con mới chịu di dời?”. Già làng Điểu Vem cười: “Tôi tự di dời cũng lâu lâu rồi. Nhà nào có điều kiện cũng tự làm chuồng xa nhà rồi. Còn những nhà khó khăn thì nhà nước hỗ trợ. Tôi sống từng này tuổi, mừng nhất là việc di dời chuồng trại ra khỏi nhà. Bây giờ đi ngoài đường vẫn thấy có phân trâu bò rơi vãi, nhưng người ta hốt ngay, hốt để bón cho cây. Còn ở nhà thì nắng hay mưa cũng không còn thấy mùi hôi thối như trước nữa. Trong thôn xóm không còn mùi hôi, ruồi, muỗi giảm nhiều, giếng nước cũng không còn ô nhiễm, không khí trong lành rồi. Giờ nghĩ lại cảnh sống trong ô nhiễm, hôi thối hồi đó, thấy ám ảnh lắm”.
Lo cho dân, nói dân nghe ngay
Theo báo cáo của Hội Nông dân huyện Lộc Ninh, trước khi có chủ trương của Huyện ủy về thực hiện kế hoạch di dời toàn bộ chuồng trại gia súc gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu dân cư, toàn huyện có gần 1.000 chuồng, điểm nhốt gia súc nuôi trong khu dân cư với hơn 4.700 con, gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Chủ tịch Hội Nông dân huyện Lộc Ninh, ông Lê Khắc Phú, cho biết, từ khi thực hiện chủ trương di dời chuồng gia súc ra khỏi khu dân cư, toàn bộ hệ thống chính trị từ huyện đến xã, ấp, sóc tham gia rất tích cực. Công tác tuyên truyền đã giúp người dân đồng tình thực hiện. Đến nay cơ bản đã di dời xong, vấn đề ô nhiễm môi trường do vật nuôi đã gần như không còn. Những điểm nuôi nhốt, buộc gia súc trước đây, nay được trồng cây, trồng hoa để góp phần “xử lý” nhanh chất thải, đồng thời tạo cảnh quan, hoặc cải tạo làm khu vui chơi để người dân không có cơ hội buộc trâu bò tại vị trí cũ theo thói quen.
Điều dễ nhận thấy nhất là dù thói quen nuôi nhốt gia súc trong nhà có từ rất lâu đời, nhưng khi hiểu rõ lợi ích của việc di dời, toàn bộ người dân đã đồng lòng. Sau khi di dời, ai nấy đều hân hoan vì cái sự lạc hậu xưa nay đã được thay thế bằng cái văn minh.
Anh Điểu Hùng, ở ấp 6, xã Lộc An, cho biết: “Tôi có 8 con bò, 5 con bò cái, 3 con sắp đẻ, lâu nay vẫn nhốt chen chúc dưới sàn nhà, cột quanh nhà. Nhà cũng không phải khó khăn, không đủ tiền làm chuồng đâu, mà trước giờ vẫn cột bò gần nhà quen rồi. Năm ngoái, cán bộ đến vận động tôi, bảo nuôi bò vậy con cái sống trong ô nhiễm bệnh tật, không lớn được. Cán bộ nói đúng. Mình làm cho mình và cho con mình. Nếu con mình không khỏe mạnh thì sao mình vui được. nghe cán bộ nói, tôi hiểu nên chấp nhận đầu tư ít tiền làm chuồng ngoài vườn điều, xa xa nhà. Giờ quanh nhà sạch, không còn hôi, bẩn nữa. Mấy đứa trẻ con tha hồ chơi, không lo dẫm đạp phải phân, nước tiểu bò như trước nữa”. Hiện nay, chuồng bò của gia đình anh Điểu Hùng rộng gần 100m2, đủ cho 11 con bò đi lại, không cần phải cột từng con như trước.
Trong khi đó, gia đình anh Điểu Vức ở ấp 8B, xã Lộc Hòa, thuộc hộ kinh tế khá giả của địa phương với gần chục ha sao su, vườn điều quanh nhà, nhưng cũng giống như mọi gia đình khác, vẫn nhốt đàn trâu, bò hơn chục con cạnh nhà. Đến khi xã đến vận động di dời chuồng, anh làm ngay. Nhưng lo sợ mất trộm nên anh làm thêm cái chòi canh. “Từ ngày dời đàn trâu bò ra xa nhà, con cái ăn ngủ ngon hơn, người khỏe hẳn ra. Vợ cũng thích lắm”.
Tuy nhiên, theo ông Lê Khắc Phú, để có kết quả như hiện nay, không phải đơn giản. “Đồng bào thiểu số bao đời nay đã có thói quen sống chung với vật nuôi, họ suy nghĩ đơn giản là vừa đỡ tốn chi phí làm chuồng, vừa kết hợp bảo vệ vật nuôi. Còn ô nhiễm, bệnh tật là do thần linh, do ông trời. Vì thế, để thuyết phục được họ, toàn bộ các cấp chính quyền phải cùng vào cuộc. Việc vận động cũng phải hết sức khéo léo. Những cán bộ thường xuyên tiếp xúc với dân, được họ tin tưởng đã làm tốt công tác tuyên truyền. Họ đến nhà dân, tâm sự, lắng nghe tâm tư, hoàn cảnh của họ, rồi về báo cáo và cùng địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của dân. Từ đó đưa ra giải pháp đúng nhất, hợp lòng dân.
Khi tiến hành di dời, lực lượng đoàn thanh niên, cán bộ trẻ của địa phương trực tiếp xuống hỗ trợ người dân san lấp mặt bằng, vận chuyển vật liệu, hỗ trợ làm chuồng trại, tiến hành chỉnh trang, cải tạo điểm buộc gia súc đã di dời; cùng bà con dọn dẹp vệ sinh khi vực ô nhiễm quanh nhà, vườn... Nhờ vậy mà công tác di dời tại hầu hết các địa phương đều tiến triển thuận lợi.
Trong công tác tuyên truyền vận động đồng bào, một yếu tố rất quan trọng là phải dựa vào uy tín của các vị cao niên, già làng, người có uy tín trong làng. Tiếng nói của họ rất có hiệu quả trong công tác tuyên truyền. Hoặc chỉ cần vận động già làng gương mẫu đi tiên phong, thì việc vận động người dân làm theo cũng đơn giản hơn nhiều”.
Một vấn đề khác là có nhiều hộ gia đình nuôi gia súc nhưng không có vườn, đất để di dời chuồng trại ra xa nhà. Nhất là tại các xã người dân sống tập trung như Lộc Thành, Lộc Tấn, Lộc Khánh. Để giải quyết việc di dời chuồng trại, chính quyền địa phương đã lập phương án xây dựng khu chuồng trại tập trung. Đi đầu là xã Lộc Thành khi dành quỹ đất công gần 1ha để xây dựng khu chuồng trại tập trung. Kế hoạch này thậm chí còn đơn giản hơn nhiều việc vận động người dân di dời chuồng ra xa nhà trên chính mảnh đất của họ. “Việc đi dời đàn gia súc ra khu chuồng trại tập trung vừa chẳng tốn đất sản xuất của dân, không tốn công sức, lại vừa tránh được ô nhiễm, nên người dân bằng lòng ngay”, ông Lê Khắc Phú nói.