Đó là lần đầu tiên gặp anh ở Đài phát thanh Hoàng Liên Sơn, anh đã nói với tôi câu ấy và bảo: Đánh đĩ với văn chương thì chẳng bao giờ ngồi được trong ngôi đền đó cả.
Năm 1981 tôi xin đi học lớp hoàn chỉnh dành cho những giáo viên trung cấp sư phạm hệ 7+2 tương đương hệ 10+2, gọi là hệ hoàn chỉnh. Tấm bằng tốt nghiệp hệ hoàn chỉnh được coi là bằng cấp III. Nhờ thế mà sau này khi đã thành danh trong làng báo tôi mới đi học lớp Đại học báo chí mà không phải học bổ túc lấy bằng cấp III.
Trường của tôi cách Đài chừng 2km, nên thi thoảng tôi đến chơi thăm anh, lúc đó anh đang làm trong Phòng Văn nghệ. Lần đầu tiên bước vào Phòng Văn nghệ tôi choáng váng bởi căn phòng chật chội nồng nặc mùi thuốc lào, những chiếc chén cáu bẩn, tàn đóm và sái thuốc vung vãi dưới nền nhà. Góc phòng là đống rác toàn mẩu thuốc lâu ngày không ai hót, nom rất sợ. Tôi không thể ngờ nhà thơ Huyền Sâm, lúc đó là Trưởng phòng, nổi tiếng với bài thơ dài "Rừng xanh" được giải ba hay khuyến khích của báo Văn nghệ mà lâu ngày tôi không còn nhớ nữa, cũng góp phần làm cho căn phòng như vậy. Ông nhà thơ vận chiếc áo ba đờ suy đã cũ, hai tay áo đen nhẫy, bóng mỡ, còn chiếc quần hình như đã mấy tháng trời chưa thay, hai đầu gối đen bóng như người ta đánh xi, tôi cảm giác vô phúc con ruồi nào vô tình đậu vào đó trượt chân ngã vỡ mặt. Nhà thơ nhướng đôi mắt dấp dính nhìn tôi cười phô hai hàm răng vàng khè khói thuốc bảo: Tớ đã đọc mấy bài thơ và truyện ngắn của cậu rồi, cũng được…
Câu chuyện rất nhạt nhẽo, vì tôi là chàng sinh viên chưa đầy 30 tuổi, mới tò te bước vào ngôi đền văn chương mà trong đó có nhiều cây đa cây đề thì tôi chả là gì để họ nói chuyện. Dương Soái tiễn tôi ra về, khi ấy anh đã nổi tiếng với bài thơ "Gửi em ở cuối sông Hồng" được nhạc sĩ Thuận Yến phổ nhạc thường xuyên phát trên sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam và được nhiều Hội diễn văn nghệ quần chúng và chuyên nghiệp trình bày.
Biết Dương Soái khá tôn trọng tôi khi anh dàn dựng phát sóng câu chuyện truyền thanh chuyển thể từ truyện ngắn “Đồng đội của anh” của tôi đăng trên tuần báo Văn nghệ năm 1981. Tháng 12/1984 tôi được nhận về Hội Văn nghệ Hoàng Liên Sơn thì tôi trở thành bạn văn của anh.
Hồi ấy ai cũng nghèo, anh ở trong ngôi nhà lá ngay cạnh Đài, vợ anh là chị Chung phát thanh viên của đài phải lo đủ thứ cho ngôi nhà bé nhỏ của mình. Có dạo chị làm phở phục vụ ăn trưa cho nhân viên của Đài, nhưng mấy ai có tiền ăn phở hàng ngày, bài ca cặp lồng thì ai cũng mang theo, nên quán phở nhà anh mở được một thời gian thì đóng cửa. Để có củi đun, nhiều chủ nhật anh rủ tôi đạp xe vào xã Đại Đồng gần hồ Thác Bà lấy củi. Chẳng có củi khô, chúng tôi đành chặt những cây gỗ tươi bằng bắp đùi về chẻ ra phơi vài nắng để đun.
Lần ấy hai anh em đạp xe đi rất sớm, mặt hồ còn mù mịt sương đêm, cỏ dưới chân ướt lẹp nhẹp, chúng tôi dựa xe vào ven đồi rồi vào rừng chặt cây, chừng nửa tiếng sau thì kéo gỗ ra chặt từng đoạn, khi đi lấy xe để buộc củi, thì ôi thôi chiếc xe Thống Nhất của anh không cánh mà bay. Mặt anh tái mét, chúng tôi chạy khắp ven bờ tìm, rồi lội xuống hồ thấy chỗ nào nghi ngờ có váng dầu là xuống mò. Nhưng chẳng thấy đành phải đèo nhau ra về.
Suốt chặng đường anh không nói, chỉ thở dài, chiếc xe đạp hồi ấy là phương tiện đi lại duy nhất và cũng tài sản lớn nhất của anh. Từ bấy, chúng tôi chả dám đi lấy củi nữa, đun nhì nhằng, tôi phải về nhà bố vợ cách cơ quan hơn hai mươi cây số xin củi về đun. Một thời đói kém và cơ cực không thể nào quên.
Tháng 3/1985 tôi được cử đi Trại sáng tác Văn học Suối Hoa đặt ở thị xã Bắc Ninh dành cho những cây bút trẻ từ Nam chí Bắc có triển vọng, do nhà văn Đỗ Chu làm chủ trại. Nhiều cây bút sau này trở thành những tác giả lừng danh như Nguyễn Quang Lập, Bảo Ninh, Trần Thùy Mai, Đức Ban, Thùy Ninh… từng là trại viên trại này. Trước khi đi, tôi đến chia tay anh, Dương Soái vốn coi tôi như em mình, nhưng hồi ấy nghèo quá chẳng giúp gì được, anh vào buồng lấy chiếc quần đùi đưa cho tôi. Thật ái ngại, anh thì cao to còn tôi thì thấp bé làm sao mặc được chiếc quần đùi rộng thùng thình như cái váy? Trước khi ra về tôi len lén vạch chiếc chiếu để trả lại chiếc quần đùi dưới đầu giường.
Dương Soái vốn là công nhân thăm dò địa chất, do có tài văn chương nên anh được mời về làm ở Đài phát thanh. Năm 1988, khi nhà thơ Ngọc Bái về làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Hoàng Liên Sơn, ông khuyến khích và mở cửa cho các tác giả bỏ tiền ra in sách. Ông bảo: Nếu cứ in chung thì chẳng bao giờ thành tác giả được… Hội đứng ra chịu trách nhiệm xuất bản, giấy phép do Sở Văn hóa cấp. Tôi được phân công biên tập hai tập thơ đầu tiên của hai tác giả, là "Chiều biên giới" của Lò Ngân Sủn, "Gửi em ở cuối sông Hồng" của Dương Soái.
Mặc dù là là thế hệ đàn em, không nổi tiếng bằng hai tác giả trên nhưng các anh rất tin tôi, bởi tôi làm việc rất có trách nhiệm với tập sách. Những câu thơ nào gợn lên tôi đều trao đổi thẳng thắn với các anh mà không sợ các anh cho rằng mình “hỗn”. Không thể nào tả nổi tâm trạng vui sướng của các tác giả khi đón đứa con đầu tiên ra đời, chấm dứt thời kỳ vài tác giả in chung một cuốn bằng nguồn ngân sách.
Do trưởng thành từ công nhân địa chất nên nhiều bài thơ anh viết về những công việc của người địa chất, những câu thơ vâm váp gập ghềnh như đá núi. Đọc những câu thơ ấy tôi ngửi thấy mùi khét lẹt của những mũi khoan xoắn vào đá, mùi mồ hôi của các công nhân… giàu hình tượng và cảm xúc.
Sau tập thơ "Gửi em ở cuối sông Hồng", anh in một loạt tập thơ và kịch truyền thanh: "Đất lạ", "Giao mùa", "Phía sau cuộc họp báo", tuyển thơ "Gửi em ở cuối sông Hồng"… Anh được bổ nhiệm làm Phó giám đốc Đài phát thanh Yên Bái, giám đốc là ông kỹ sư kỹ thuật, vốn chả có nghiệp vụ phát thanh truyền hình, nhưng vì con ông cháu cha nên được ngồi vào cái ghế đó, còn ông phó giám đốc phụ trách nội dung thì trưởng thành từ phát thanh viên, anh phụ trách mảng phóng viên, nên nhiều ý kiến của anh bị họ gạt đi. Những lúc ấy anh rất buồn, thường tìm đến tôi giãi bày tâm sự. Anh bảo: Các cụ ta ngày xưa nói đúng, làm tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại, nhiều khi tức lắm…
Cũng vì mang cái nghiệp văn chương nên anh được phân công sang làm Chủ tich Hội Văn nghệ mà anh chẳng muốn tý nào, bởi ở đó cuộc tranh giành chức tước cũng khiếp lắm, nhất là trước đại hội, nhiều cuộc vận động hội viên đến lấy lòng họ bằng chuyện in bài, rồi có người đến đặt vấn đề nọ kia, tôi nói bóng gió xa gần để anh biết, anh rà rà mấy sợi râu cười tủm tỉm mà chẳng nói gì. Năm 2010 anh nghỉ hưu, thì cũng là khi vợ anh bị đột quỵ, nằm bẹp trên giường không đi lại được, anh phải phải thức khuya dậy sớm chăm sóc vợ, lo từng bữa cháo rồi bơm thức ăn qua mũi cho chị, suốt mấy năm trời, bây giờ vợ anh vẫn sống thực vật, cơ khổ cho cái thân anh chưa bao giờ được nhàn nhã.
Năm 2019, báo chí bắt đầu viết nhiều về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra tháng 2/1979. Sáng 16/2/2019 tôi tới thăm anh hỏi kỹ hoàn cảnh ra đời bài thơ "Gửi em ở cuối sông Hồng", anh lặng đi một lúc, gương mặt đầy xúc động khi nhớ lại cuộc chiến cách đó 40 năm.
Anh kể: "Sáng 17/2/1979 sau khi nghe tin cuộc chiến tranh biên giới nổ ra, tôi được cử lên thị xã Cam Đường tháo dỡ các thiết bị trạm phát sóng của đài phát thanh Hoàng Liên Sơn và đưa tin về cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc của quân và dân ta. Chiều 18/2 chúng tôi lên tới Cam Đường, buổi phát sóng cuối cùng vào quãng 17 - 18h, trên đỉnh đài phát sóng nhấp nháy đèn tín hiệu, chúng nã pháo cấp tập vào đó, chúng tôi phải nấp vào các hầm trú ẩn thời chống Mỹ. Sáng hôm sau tôi được lệnh lên tận mặt trận để đưa tin trực tiếp về cuộc chiến. Từng đoàn người dân lũ lượt chạy giặc từ thị xã Lào Cai xuống, còn tôi khoác máy ghi âm và cuốn sổ tay phóng viên ngược lên. Pháo giặc bắn xối xả vào thị xã Lào Cai và dọc con đường lên thị xã, chúng tôi phải nhảy xuống rãnh đường ẩn nấp, ngớt tiếng pháo lại vùng dậy đi tiếp, nhiều người dân bị pháo bắn chết và bị thương dọc con đường chạy loạn.
Khi lên tới Vĩ Kim thì tôi bị các chiến sĩ bộ đội chặn lại, vì cuộc chiến đang diễn ra ác liệt phía bên kia cầu Cốc Lếu. Khi xem giấy tờ, biết tôi là phóng viên nhưng họ vẫn yêu cầu quay trở lại Bộ Tư lệnh tiền phương đóng ở phía sau. Cuộc chiến diễn ra quá bất ngờ, mặc dù ta đã dự liệu từ trước, nhưng với chiến thuật biển người, nhiều chốt bắn hết đạn bộ đội ta phải lui về phía sau. Gặp những người lính quần áo bê bết bùn đất và máu sung sướng ôm lấy nhau khi biết đồng đội còn sống. Biết tôi là phóng viên, nhiều người xé vội sổ tay viết thư về gia đình nhờ tôi chuyển giúp. Nhìn những dòng địa chỉ mà các chiến sĩ gửi về, lòng tôi trào lên một cảm xúc khó tả, tứ thơ "Gửi em ở cuối sông Hồng" ùa đến không thể kìm nén nổi, bài thơ ấy tôi viết ngay ở mặt trận dưới những làn đạn pháo rền vang của quân xâm lược…".
Đã lâu rồi tôi không gặp anh, nhất là khi tôi bị căn bệnh hiểm nghèo đánh quỵ, nhưng kỷ niệm với anh thì không bao giờ quên.