Ngày 26/7, Bộ NN-PTNT đã phối hợp với Văn phòng dự án tổ chức TRAFFIC International Việt Nam tổ chức Hội thảo Quốc gia về bảo tồn rùa biển và thú biển tại Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Hội thảo là cơ hội để các đại biểu trao đổi đánh giá kết quả thực hiện Kế hoạch Hành động quốc gia về bảo tồn các loài rùa biển Việt Nam giai đoạn 2016 - 2025; giới thiệu một số kết quả, giải pháp và mô hình bảo tồn rùa biển và thú biển; định hướng và đề xuất các giải pháp bảo tồn rùa biển và thú biển trong thời gian tới.
Nhiều chương trình, kế hoạch bảo tồn rùa biển
Chương trình bảo tồn các loài rùa nguy cấp của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1176/QĐ-TTg ngày 12/9/2019 là một cơ sở pháp lý để thực hiện các hoạt động bảo tồn rùa biển tại Việt Nam.
Bộ NN-PTNT đã ban hành Kế hoạch Hành động quốc gia về bảo tồn các loài rùa biển Việt Nam giai đoạn 2016 - 2025 tại Quyết định số 811/ QĐ-BNN-TCTS ngày 14/3/2016.
Kế hoạch xác định mục tiêu ít nhất 5% số tàu nghề lưới rê và 10% số tàu nghề lưới kéo sử dụng thiết bị thoát rùa (TED); 100% nơi sinh cư của rùa biển được bảo vệ; hoàn thiện hệ thống tổ chức, cơ chế, chính sách bảo tồn rùa biển phù hợp với Kế hoạch Hành động quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học; cơ sở dữ liệu về rùa biển được hoàn thiện, kết nối từ Tổng cục Thủy sản tới các Vườn Quốc gia, khu bảo tồn biển và các Chi cục Thủy sản địa phương.
Ngành nông nghiệp đã tổ chức xây dựng báo cáo các nội dung liên quan đến bảo tồn thú biển tại Việt Nam, trong đó cung cấp các thông tin về các nhóm loài thủy sản khai thác, chế biến, nuôi trồng xuất khẩu sang Hoa Kỳ; liệt kê các nghề khai thác chính có khả năng đánh bắt không chủ ý thú biển; thông tin các loài thú biển có phân bố ở vùng biển Việt Nam; thông tin doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ; các quy định của Việt Nam về bảo vệ thú biển trong báo cáo tương đương với Luật Bảo vệ thú biển của Hoa Kỳ nộp trực tuyến năm 2022.
Đề xuất nhiệm vụ môi trường thực hiện điều tra, đánh giá sơ bộ tỉ lệ khai thác không chủ ý các loài thú biển của các nghề khai thác hải sản, đề xuất các biện pháp quản lý nhằm giảm thiểu tỷ lệ khai thác không chủ ý và bảo tồn thú biển; xây dựng quy trình kỹ thuật cứu hộ các loài thú biển.
Bộ cũng đã xây dựng dự thảo, lấy ý kiến góp ý của các cơ quan, đơn vị có liên quan trong và ngoài Bộ, hoàn thiện Dự thảo Kế hoạch hành động quốc gia về cá nhám, cá đuối và thú biển Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025.
Vườn Quốc gia Côn Đảo là một trong những đơn vị triển khai mô hình rùa biển tốt và hiệu quả nhất. Giai đoạn 2020 - 2022, Vườn Quốc gia Côn Đảo đã ghi nhận có 2.347 cá thể rùa mẹ về vùng biển Côn Đảo làm tổ đẻ trứng, trung bình hơn 600 - 900 rùa mẹ/năm, tăng 42,24% so với giai đoạn 2017 - 2019. Đã đeo thẻ theo dõi đặc tính sinh học 1.220 cá thể rùa mẹ, trung bình 380 - 400 rùa mẹ/năm.
Tổng số lượng tổ rùa cứu hộ thành công giai đoạn năm 2020 - 2022 là 7.075 tổ, tăng 42,76% so với giai đoạn 2017 - 2019. Địa điểm rùa biển lên bãi đẻ trứng nhiều nhất là Bảy Cạnh, Hòn Cau, hòn Tre Lớn, Bãi Dương… Trong 6 tháng đầu năm 2023 có 1.028 tổ được cứu hộ và ấp nở nhân tạo.
Giai đoạn năm 2020 - 2022 đã đeo thẻ theo dõi đặc tính sinh học 1.220 cá thể rùa mẹ, ghi nhận được 2.347 cá thể rùa mẹ lên bãi đẻ trứng, với tổng lượng trứng là 671.601 trứng, ấp nở và thả về biển 503.069 cá thể rùa con, đạt tỷ lệ 76,98%.
Vườn Quốc gia Côn Đảo là nơi đầu tiên nghiên cứu và ứng dụng các mô hình bảo tồn rùa biển hiệu quả, phù hợp với điều kiện nước ta, từ đó có thể áp dụng cho các vùng khác của Việt Nam.
Thiết lập hệ thống giám sát rùa biển nhằm nâng chất công tác bảo tồn
Tuy nhiên, công tác bảo vệ rùa, thú biển vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Trong đó, kinh phí cho việc thực hiện các nhiệm vụ, dự án ưu tiên hạn chế, dẫn đến nhiều nội dung chưa triển khai hoặc triển khai không đồng bộ nên hiệu quả không cao.
Kế hoạch bảo tồn rùa thiếu nội dung kiểm soát, ngăn chặn buôn bán bất hợp pháp, xử lý vi phạm các đối tượng buôn bán rùa biển; chưa có vai trò rõ rệt của các lực lượng thực thi pháp luật. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm môi trường biển đang ngày càng nghiêm trọng, các bãi đẻ của rủa bị xâm hại do biến đổi khí hậu, sóng biển…
Để khắc phục những tồn tại trên, hội nghị để xuất việc cần thiết lập hệ thống giám sát trên biển trong đó tích hợp giám sát rùa biển.
Tiếp tục cải tiến ngư cụ, ứng dụng thiết bị thoát rùa để giảm thiểu khai thác không chủ ý, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tổ chức thực hiện các hoạt động truyền thông bảo tồn rùa biển.
Công tác cứu hộ, tái thả rùa biển cần được xã hội hóa. Trước mắt ưu tiên việc triển khai các trạm cứu hộ thu nhỏ ở một số địa phương có phân bố rùa biển, từ đó tiến tới thiết lập các trạm cứu hộ rùa biển tại khu vực trọng điểm nghề cá.
Trong công tác bảo tồn, cần tiếp tục điều tra, đánh giá, lập bản đồ hiện trạng về rùa biển, nơi sinh cư và đề xuất các giải pháp bảo tồn rùa biển. Duy trì, cập nhật và khai thác cơ sở dữ liệu về rùa biển để phục vụ công tác quản lý nhà nước về rùa biển. Nghiên cứu di truyền quần thể rùa biển Việt Nam; ứng dụng công nghệ nhận dạng hình ảnh để nhận diện rùa biển.
Thiết lập kịch bản theo Quy hoạch Bảo vệ và Khai thác thủy sản giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (các đảo Nam Du - huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang; đảo Thổ Chu - thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang; vịnh Quy Nhơn - Bình Định), khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản/ khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn (khu vực biển Côn Đảo - tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) để bảo vệ khu vực kiếm ăn, di cư của rùa biển trong mùa sinh sản.
Bên cạnh đó, cần xác lập rõ vai trò, trách nhiệm phối hợp của các lực lượng thực thi pháp luật (cảnh sát môi trường, hải quan, quản lý thị trường, hải quân, biên phòng, cảnh sát biển, kiểm ngư…) trong việc xử lý các trường hợp vi phạm về bảo tồn rùa biển.