NNVN xin được trích đăng để các nhà khoa học tiện bề đánh giá lại công hiệu của nó, nếu có tác dụng thực sự thì phổ biến cho nhiều người biết.
Hai cuốn sách cùng một bài thuốc
“…Có quyển sách thuốc Nam in đầu thế kỷ 20 mang tên “Thần dược cứu mệnh” giới thiệu một bài thuốc thần “cứu người sau bốn khắc”. Trong quyển “Hai trăm bài thuốc quý” của ông Lê Văn Tĩnh, Sa Đéc, in khoảng năm 1940, cũng có một bài giống y như vậy, đề là “chủ trị lâm ban, ôn dịch và các bệnh nan y, công hiệu như thần, bệnh lui sau 60 phút”… Vị thuốc thần đó chính là vị thuốc có tên “địa long” - con rồng trong đất.
Chị Liên nói chuyện cùng ông Định |
Ở Trung Quốc và Việt Nam, vị địa long có mặt trong nhiều thang thuốc trị bệnh hiểm nghèo hoặc để cấp cứu người sắp chết. Nhân dân Hàn Quốc có thói quen ăn cháo địa long trước khi ngủ, để tẩm bổ và để trị bá bệnh. Đêm đêm, cháo địa long có bán tại các thị trấn và ngay cả ở thủ đô. Gần đây trong thời gian Thế vận hội Olympic Seoul, vì ngại người nước ngoài không hiểu vị thuốc quý mà coi thường nhân dân Nam Hàn nên Chính phủ đã cấm bán cháo địa long trong thời gian Thế vận hội.
Vậy “địa long” là gì? Nó chính là con trùn đất, loại có màu sẫm đen, ánh xanh ở cổ, to bằng đầu đũa hoặc to hơn, khi đào trúng nó, nó không giãy giụa, co thành một nùi tròn nằm im. “Thần dược cứu mệnh” phân tích tính dược của trùn đất, cho rằng nó có khả năng làm dai mạch máu và dây thần kinh, nối liền các chỗ dây thần kinh bị dứt, các mạch máu bị nứt rách, hồi phục sự sống cho các tế bào… Cho nên, chỉ sau sáu mươi phút bệnh phải lui, mọi hiện tượng lâm sàng đều biến mất. Do đó địa long được dùng và công hiệu rất nhanh chóng trong các trường hợp: Cửu khiếu xuất huyết, não bộ xuất huyết, ngũ tạng, lục phủ xuất huyết, phù thận, phù gan, phù toàn thân, phù tim, đột ngột phát điên không rõ nguyên do có sốt hoặc không có sốt, bí đại tiểu tiện, bí trung tiện, bụng báng trướng nước…
Thành phần các chất trong giun khô phân tích được |
Lúc nhỏ tôi rất mê ngành y dược. Các sách chữ Pháp dành cho các y bác sĩ nghiên cứu kỹ về nhi khoa, sản khoa, đa khoa, giải phẫu… đọc rất khó hiểu và rất đắt tiền tôi cũng ráng mua để nghiên cứu. Hai quyển sách thuốc “Thần dược cứu mệnh” và “200 bài thuốc quý” tôi coi như vàng ngọc. Đi kháng chiến, hai quyển đó nằm dưới đáy ba lô tôi, theo tôi suốt chín năm, giúp tôi trị bệnh cứu người. Chỉ riêng năm 1953 và nửa đầu năm 1954 tôi đã cứu gần trăm người, coi như giật lại từ tay thần chết. Trong cuộc giành giật đó, có lần tôi đã chạm trán cả với một vị danh y mà trước đó các nhà điền chủ lớn ở Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu thường đưa xe hơi hoặc ghe máy đến tận nhà để rước ông.
Năm đó ở vùng giáp bốn tỉnh này có một đợt dịch bệnh, phần lớn là các cháu nhỏ từ 9 - 10 tuổi đến 15 - 17 tuổi, đa số là gái, các cháu trai và người lớn ít bị hơn. Hiện tượng là xuất huyết nội tạng, xuất huyết cửu khiếu, xuất huyết dưới da (nổi vệt đỏ bầm tím, xanh đen khắp người) hôn mê bất tỉnh nằm im như xác chết… Lần đó cháu gái hôn mê đã 8 ngày, mình đầy các vệt tím. Gia đình đã rước được vị danh y nổi tiếng nói trên nhưng ông đến xong lại từ chối không trị bệnh cho cháu chỉ vì trong số 30 - 40 vệt bầm đen trên da cháu có một vệt đen kịt to bằng đầu ngón tay nằm đúng giữa hai đầu lông mày. Ông cho đó là điềm báo không thể cứu sống. Sợ mất uy tín thầy nên ông không hốt thuốc.
Tình cờ tôi đến thấy má cháu đang quỳ lạy van xin ông cứu cháu mà ông một mực chối từ. Nghe mạch tại tim, thấy còn tiếng thoi thóp rất yếu, tôi nói: Thưa thầy, thầy quyết bỏ, thì con xin phép thầy cho con cứu cháu. Em mà cứu được hả? Có thấy vệt đen ngay huyệt tam tinh không mà em liều mạng vậy? Tôi hỏi em, sau khi em đổ thuốc thì bao lâu cháu tỉnh lại? Em nói được, tôi sẽ để cho em đổ thuốc. Thưa thầy bài thuốc của con cháu uống xong chỉ độ 63 - 65 phút sau cháu sẽ mở mắt. Thầy trợn tròn mắt, đỏ mặt tía tai, lườm tôi rồi quát: Chủ nhà đâu, đem cho tôi cái đồng hồ bàn. Ông dằn mạnh đồng hồ lên bàn, nói: Được rồi! Có đồng hồ đó. Tôi ở lại coi cháu nhỏ tỉnh dậy.
Có kinh nghiệm cả trăm lần rồi, tôi rất tin ở bài thuốc. Tôi đi nấu rồi cạy răng đổ cho cháu uống. Quả nhiên tới phút 63 cháu mở mắt, đến phút thư 65 cháu đòi đỡ ngồi dậy, đòi uống nước ăn cháo, đòi cho đi tiêu, tiểu. Tiếng cháu rất yếu, hai mắt cháu toàn tròng trắng, không thấy tí tròng đen nào. Nhưng tay chân cháu đã ấm, da hết tái xanh. Rõ ràng cháu đã sống lại.
Ông Nguyễn An Định kể về bài thuốc |
Ông thầy thuốc với hai tay lên đầu, lột khăn đóng xuống chắp tay trước ngực nói: Lúc nãy em kêu tôi bằng thầy, bây giờ tôi phải lạy em ba lạy mà kêu em bằng thầy. Xin thầy thông cảm cho, vì thầy trẻ quá, nhỏ hơn con tôi nhiều do đó tôi không quỳ lạy sợ tổn thọ cho thầy. Tôi chỉ xin xá đủ ba xá thay cho ba lạy. Nói xong ông trịnh trọng xá tôi ba xá, đầu cúi sâu thật nghiêm túc. Sau đó ông xin tôi bài thuốc…
Cuộc tranh luận với Bộ trưởng Bộ Y tế
Cuối năm 1969, ở Hà Nội có đợt dịch bệnh gọi là sốt xuất huyết, được xác định xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta. Các cháu nhỏ chết la liệt, tại bệnh viện lớn có ngày 15 - 17 cháu chết. Nghe nói có dịch bệnh gây chết tràn lan tôi đến các bệnh viện xem. Thấy các dạng bệnh giống y như tôi đã từng gặp, tôi viết ngay một bài, nói rõ về bệnh và phổ biến bài thuốc “Thần dược cứu mệnh”, gởi lên Bộ trưởng Bộ Y tế lúc bấy giờ là bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng. Bác gởi phổ biến đi các tỉnh, đồng thời gởi đăng ngay trên báo “Hà Nội mới”. Trong bài viết của tôi có câu: “Đề nghị dùng thuốc này cho các ca bệnh nặng nhất. Bảo đảm 100% sẽ không có tử vong”. Bác sĩ Hưởng đã xóa bỏ đoạn “…Bảo đảm 100%…”. Đọc báo thấy mất đoạn đó, tôi chạy ngay đến nhà bác Bộ trưởng.
Tôi nói: Thưa bác, bác bỏ mất đoạn quan trọng nhất trong bài của cháu. Vì cháu nghĩ, vị chủ của bài thuốc này là con trùn nên nó dễ gây ngại dùng. Bắt con trùn còn gớm, làm thuốc càng ớn hơn, vì vậy để câu đó, người ta tin chắc chắn nó sẽ cứu sống người bệnh, do đó người ta ráng không gớm, ráng bằng mọi giá làm thuốc để cứu bệnh nhân. Bác Hưởng nói: Giả dụ người bệnh đến giờ phải chết, 5 - 10 phút nữa sẽ chết, mà thuốc của cháu lại cần đến 60 phút mới cứu sống. Vậy làm sao bảo đảm 100% được? Thận trọng vẫn hơn cháu à. Trong ngành y không nên nói câu đó.
Chị Liên đang xay bột giun để làm thuốc |
Thưa bác, nhưng kinh nghiệm thực tế của cháu đã cho thấy rõ, thuốc có uống khỏi cổ là đã chắc sẽ sống rồi. Bác Hưởng không bằng lòng nên nói: Tôi nhắc lại, ngành y không cho phép nói bảo đảm cứu sống 100%. Bác cháu tôi tranh luận như vậy.
Nhưng vài tháng sau, tôi nhận được thư mời của Giám đốc Sở Y tế Hà Nội đến hội nghị tổng kết dịch sốt xuất huyết toàn miền Bắc do Sở tổ chức. Trong giấy mời có viết: Trong cuộc chống dịch sốt xuất huyết vừa qua, Bộ có sử dụng bốn bài thuốc Nam do nhân dân đóng góp. Nói chung, thuốc Nam trị bệnh này đạt hiệu quả rõ ràng và nhanh chóng hơn Tây y. Tuy nhiên, trong các bệnh nhân dùng ba bài thuốc kia, vẫn có những ca tử vong. Duy chỉ có bài “trùn đất” của đồng chí là cứu sống 100%, không có ca tử vong nào mặc dù bài thuốc đó đã dùng cho tất cả các bệnh nhân nặng nhất… Ngoài bệnh sốt xuất huyết, thuốc còn trị được các bệnh nào khác?
Cuộc họp đó có khoảng hơn 200 người đến dự, gồm Hội đồng Kỹ thuật của Bộ, các giám đốc bệnh viện quận và huyện ngoại thành, các lương y và sư sãi tham gia trị bệnh cứu người. Báo cáo của tôi trả lời các câu hỏi của đồng chí giám đốc sở cùng nhiều câu hỏi khác, đã được hội nghị vỗ tay hoan hô hồi lâu. Sau hội nghị đó, bác Hưởng mời tôi tới nhà bác và gợi ý: Tôi muốn đề nghị với Bộ Văn hóa biệt phái cháu về Viện Đông y trong thời gian 3 - 5 năm. Ở Viện, tôi sẽ cử cháu phụ trách một tổ nghiên cứu gồm nhiều phó tiến sĩ y dược. Cháu cùng các vị đó sẽ bào chế, biến bài thuốc của cháu thành thuốc chai để uống… chế được thuốc tiêm, ta sẽ đưa đi điều trị cho bảy, tám chục bệnh nhân. Nếu thời gian chấm dứt các hiện tượng làm sáng tỏ vấn đề là 63-65 phút như thuốc thang, coi như ta thành công. Chừng đó bác sẽ cho sản xuất đại trà, bán rộng ra nước ngoài. Bác sẽ để tên thuốc là AV ngầm hiểu là antivirus…
Hồi đó tôi mới lấy xong bằng đại hoc nghệ thuật từ nước ngoài, mới về nước nên còn mê công tác văn học nghệ thuật. Chưa biết say mê ngành y cho nên đã từ chối lời mời của bác… Tôi nói: Thưa bác, cháu làm tổ trưởng tổ nghiên cứu thì làm sao các vị phó tiến sĩ y dược nghe theo lời cháu?