Quy mô thị trường sẽ tương đương thuốc hóa học
Thị trường thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) sinh học toàn cầu hiện đang tăng trưởng khá tốt. Theo Cục Bảo vệ thực vật và dự báo của các chuyên gia và tổ chức quốc tế có uy tín, giai đoạn 2023 - 2028, quy mô thị trường thuốc BVTV sinh học sẽ phát triển với tốc độ tăng trưởng kép, CAGR đạt 15,9%/năm. Cụ thể, năm 2023, quy mô thị trường thuốc BVTV sinh học toàn cầu đạt 6,7 tỷ USD, dự kiến năm 2030 sẽ đạt 15,57 tỷ USD. Với tốc độ tăng trưởng như trên, dự báo thị phần thuốc BVTV sinh học sẽ tương đương với thị phần thuốc BVTV hóa học trong giai đoạn 2040 - 2050.
Hiệp hội Công nghiệp Bảo vệ thực vật Trung Quốc (CCPIA) dự báo, quy mô thị trường thuốc BVTV sinh học toàn cầu theo thành phần và tính theo doanh số công thức đến 2027 là 14 tỷ USD, trong đó, thuốc BVTV vi sinh là 8,73 tỷ SD, thuốc BVTV sinh hóa là 3,28 tỷ USD và thuốc BVTV thảo dược là 1,95 tỷ USD.
Tại Trung Quốc – nước xuất khẩu thuốc BVTV lớn nhất thế giới, thị trường thuốc BVTV sinh học đang gia tăng khá tốt. CCPIA dự báo tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường thuốc BVTV sinh học ở Trung Quốc trong giai đoạn 2020 - 2028 là 11,4%/năm. Đến 2028, quy mô thị trường thuốc BVTV sinh học của Trung Quốc là 1,67 tỷ USD.
Vào năm 2020, các công ty sản xuất thuốc BVTV sinh học chiếm 18,61% tổng số công ty thuốc BVTV của Trung Quốc. Số lượng đăng ký thuốc BVTV ở Trung Quốc chủ yếu là thuốc hóa học, nhưng tỷ lệ đăng ký thuốc BVTV sinh học có xu hướng tăng lên qua hàng năm.
Tính đến hết năm 2023, có hơn 140 hoạt chất và hơn 2.600 sản phẩm thuốc BVTV sinh học đăng ký hợp lệ ở Trung Quốc. Trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của hoạt chất và sản phẩm thuốc BVTV sinh học ở Trung Quốc lần lượt là 6,4% và 8,83%.
Cơ hội lớn cho thuốc BVTV sinh học
Ông Sun Shubao, Chủ tịch CCPIA nhận định, phát triển nông nghiệp xanh và bền vững đang là chủ trương của nhiều quốc gia trên thế giới. Trước xu hướng bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm, thị trường thuốc BVTV sinh học toàn cầu đang trong cơ hội phát triển chưa từng có.
Có 3 yếu tố chính đang thúc đẩy sự phát triển của thị trường thuốc BVTV sinh học toàn cầu. Đầu tiên là nhiều người tiêu dùng đang có xu hướng tìm kiếm các sản phẩm hữu cơ, trong khi mức độ nhận biết và chấp nhận của người trồng với thuốc BVTV sinh học đang tăng lên, qua đó làm tăng nhu cầu sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Chính sách ủng hộ thuốc BVTV sinh học của các quốc gia đang khiến xu hướng sử dụng thuốc BVTV hoá học giảm; cơ sở, điều kiện đăng ký thuốc BVTV sinh học trở nên thuận tiện hơn, qua đó khuyến khích các công ty nghiên cứu, phát triển và đăng ký thuốc BVTV sinh học.
Các tiến bộ công nghệ sinh học đã giúp giảm thời gian để đổi mới và tạo ra sản phẩm thuốc BVTV sinh học, giảm chi phí R&D cũng như chi phí sản xuất. Tiến bộ công nghệ sinh học cũng giúp hiệu quả phòng trừ của thuốc BVTV được cải thiện, tăng thu nhập cho nông dân và cải thiện chất lượng nông sản.
Các nước khuyến khích phát triển
Xu hướng nghiên cứu, sử dụng thuốc BVTV sinh học cùng các chính sách phát triển sản xuất, sử dụng thuốc BVTV sinh học đang được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, tăng cường đầu tư nghiên cứu và phát triển.
Nhằm đẩy nhanh việc đăng ký các sản phẩm thuốc BVTV sinh học, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã hỗ trợ các nước EU đánh giá nhanh rủi ro của thuốc BVTV sinh học đối với con người và môi trường, đồng thời cung cấp các khoản tài trợ cho hoạt động nghiên cứu, phát triển, thiết lập đơn vị sản xuất thuốc BVTV sinh học tại EU. Bên cạnh đó, EU cũng đã thông qua kế hoạch tăng cường sử dụng thuốc BVTV sinh học, giảm sử dụng thuốc BVTV hóa học (cắt giảm 505 loại thuốc BVTV hóa học độc hại đang lưu hành).
Tại EU, các nhà sản xuất thuốc BVTV sinh học đã cam kết đến năm 2030 dành 10 tỷ Euro cho đổi mới công nghệ kỹ thuật số và 4 tỷ Euro cho đổi mới thuốc BVTV sinh học.
Chính phủ Mỹ đã thành lập các bộ phận chuyên trách về thuốc trừ sâu sinh học và ban hành nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện cho đăng ký các sản phẩm thuốc BVTV sinh học. Tăng cường nghiên cứu, phát triển sản xuất thuốc BVTV sinh học thông qua chiến lược quốc gia về hiện đại hóa hệ thống quản lý đối với các sản phẩm công nghệ sinh học, trong đó bao gồm thuốc BVTV sinh học.
Chính phủ Mỹ cũng khuyến khích nông dân sử dụng thuốc BVTV sinh học thông qua việc xây dựng các nền tảng cung cấp dữ liệu về thuốc BVTV sinh học để người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận, nâng cao hiểu biết về loại thuốc này. Đồng thời tuyên truyền trực tiếp đến người dân về thuốc BVTV sinh học và sản xuất an toàn thông qua các đại lý khuyến nông.
Chính phủ Trung Quốc đã thành lập quỹ quốc gia 800 triệu Nhân dân tệ hỗ trợ nông dân sử dụng thuốc BVTV sinh học để phòng chống sinh vật gây hại. Xây dựng 600 khu trình diễn về phòng trừ tổng hợp kết hợp kiểm soát xanh, 150 huyện thí điểm về phòng trừ sinh vật gây hại bằng phương pháp xanh nhằm thúc đẩy mạnh mẽ việc quảng bá, ứng dụng thuốc BVTV sinh học.
Trung Quốc đã cắt giảm thời gian thử nghiệm thuốc BVTV sinh học xuống còn 1 năm (ít hơn 1 năm so với thuốc BVTV hóa học). Bên cạnh đó là các chính sách quan trọng khác như điều chỉnh giảm thuế từ 13% xuống 9% đối với buôn bán thuốc BVTV sinh học và giảm 13% thuế đối với các doanh nghiệp phát triển thuốc BVTV sinh học mới. Thành lập liên minh hợp tác khoa học - doanh nghiệp về thuốc BVTV sinh học.
Đài Loan có chính sách đầu tư, hỗ trợ cho các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp nhằm thúc đẩy nghiên cứu và phát triển thuốc BVTV sinh học. Vùng lãnh thổ này đang đẩy mạnh triển khai chương trình 10 năm giảm một nửa lượng hóa chất và khuyến khích nghiên cứu, thử nghiệm, đăng ký thuốc BVTV sinh học; trợ cấp vật tư nông nghiệp, cung cấp danh mục thuốc BVTV sinh học được phép sử dụng và hỗ trợ nông dân từ 5.000 Đài tệ/ha lên 10.000 Đài tệ/ha khi sử dụng các sản phẩm sinh học.
Đài Loan cũng đang triển khai xây dựng mô hình nông nghiệp hữu cơ nhằm từng bước thay đổi nhận thức của người dân, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội, thúc đẩy, mở rộng xuất khẩu thuốc BVTV sinh học.
Ấn Độ đang triển khai kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu, với trọng tâm là phát triển thuốc BVTV sinh học. Theo đó, Ấn Độ triển khai các chương trình trợ cấp vốn, ngân hàng hỗ trợ 100% vốn cho Chính phủ các tiểu bang với mức tài trợ lên đến 240.000 USD nhằm thiết lập cơ sở sản xuất thuốc BVTV sinh học tư nhân với công suất tối đa 200 tấn/năm. Cục Công nghệ sinh học Ấn Độ hỗ trợ nông dân 460 USD/ha nhằm tăng cường sử dụng thuốc BVTV sinh học trong vòng 3 năm.
Nhiều tập đoàn hóa chất nông nghiệp đa quốc gia đã đẩy mạnh cơ cấu sản phẩm, tăng cường đầu tư nghiên cứu, phát triển, thương mại hóa các sản phẩm sinh học nhằm đón đầu xu thế và chiếm lĩnh thị trường thuốc BVTV sinh học trên thế giới.
Ông Đặng Văn Bảo, Chủ tịch CropLife Việt Nam cho biết, những công ty thành viên của CropLife đã gia tăng chi phí đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) thuốc BVTV sinh học, từ 16 triệu đô la lên 26 triệu đô la, tăng 62,5% so với mức nghiên cứu trước đó.