Theo ông Kim Văn Tiêu, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (Bộ NN-PTNT), do có nhiều tiểu vùng khí hậu nên Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển các giống cá nước lạnh.
Dẫn chứng cho điều đó, ông Kim Văn Tiêu phân tích, cùng là các giống cá nước lạnh, nếu được nuôi tại các quốc gia ôn đới khác, sau 1 năm cá chỉ đạt khoảng 1kg, nhưng nếu nuôi tại Việt Nam, cá có thể cho khối lượng lớn gấp đôi từ 2 - 2,5kg.
Trứng cá tầm là một sản phẩm có giá trị cao trên thế giới. Tại các nước ôn đới, cá tầm phải được nuôi từ 7 - 10 năm mới có thể khai thác được trứng. Tại Việt Nam, chỉ cần nuôi 5 năm,cá tầm đã có thể cho khai thác được trứng.
“Đó là những lợi thế lớn của Việt Nam để nuôi cá nước lạnh. Chúng ta hoàn toàn có thể nuôi và xuất khẩu. Thực tế cho thấy, hiện nay chúng ta cũng đã xuất khẩu trứng cá tầm nhưng với số lượng còn ít, chỉ khoảng 3,5 tấn/năm”, ông Kim Văn Tiêu nhấn mạnh.
Theo đó, để có thể hướng đến việc xuất khẩu các sản phẩm từ cá nước lạnh, ông Tiêu cho rằng cần tổ chức lại ngành hàng cá nước lạnh một cách bài bản với định hướng lấy doanh nghiệp làm đầu tàu.
“Theo quy luật kinh tế thị trường, ai nắm bắt được thị trường sẽ có thể dẫn dắt sản xuất. Chỉ có doanh nghiệp mới nắm được thị trường, mới có được đầu ra và có thể sản xuất theo nhu cầu, tiêu chuẩn của người tiêu dùng", chuyên gia khuyến nông nhận định.
Bên cạnh đó, hiện nay, hầu hết các cơ sở nuôi cá nước lạnh đều nằm ở vùng sâu, vùng xa và rất khó đi lại do chỉ có ở đó mới có nguồn nước lạnh đảm bảo chất lượng để nuôi cá. Ông Kim Văn Tiêu cho rằng, Nhà nước cần có sự hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng như làm đường, dẫn điện…
Bà con nông dân nuôi cá nước lạnh cũng không nên triển khai mô hình nhỏ lẻ mà cần liên kết qua doanh nghiệp, cần thay đổi tư duy, hướng đến liên kết chuỗi để đạt hiệu quả cao, tạo ra đầu ra bền vững.
Theo đó, để bà con nuôi trồng thủy sản nói chung và cá nước lạnh nói riêng có thể phát triển bền vững, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho rằng người dân nuôi cá nước lạnh cần nhanh chóng thay đổi tư duy từ chữa bệnh sang tư duy phòng bệnh từ sớm từ xa, từ lúc cá chưa có bệnh.
Đồng thời, trước khi triển khai mô hình mới, bà con nên đi tham quan các mô hình tiêu biểu. Bên cạnh việc học những kiến thức bổ ích cần phải nắm rõ những khó khăn, hạn chế đề về khắc phục nhược điểm đó khi triển khai mô hình của mình.
Cùng với đó, cần chuẩn bị đủ điều kiện về vật chất như đất đai, vốn, kỹ thuật… và tinh thần như sự quyết tâm, nhiệt tình trước khi triển khai.
“Phải làm từ bé đến lớn, làm với quy mô vừa phải, hợp lý với tầm và sức cho đến khi đủ trí và lực mới bắt đầu phát triển mạnh gắn với các HTX hoặc tổ hợp tác và các doanh nghiệp. Đó mới là cách phát triển bài bản, phát triển bền vững”, ông Kim Văn Tiêu lưu ý.
Ông Tiêu cũng cho rằng bà con cần làm đến đâu ghi chép vào sổ nhật ký đến đấy để truy xuất nguồn gốc, để rút kinh nghiệm cho mùa sau, để chia sẻ kiến thức giữa nông dân với nông dân, giữa chuyên gia với nông dân.
Cuối cùng, người dân cần chủ động sáng tạo do mô hình ở mỗi nơi lại có điều kiện tự nhiên, khí hậu khác nhau.
Những năm qua, việc phát triển nuôi cá nước lạnh ở các vùng cao đã góp phần tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng tại các vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên giới.
Bằng chứng là sản lượng nuôi cá nước lạnh tăng nhanh trong thời gian qua. Nếu như năm 2007, sau thời gian hai năm đưa về nuôi tại Việt Nam sản lượng mới chỉ 95 tấn thì năm 2010 đã tăng lên 450 tấn; sang năm 2015 là 1.500 tấn và đến năm 2020 ước đạt khoảng 4.000 tấn. Tăng trưởng của cá nước lạnh trong giai đoạn 2007 - 2020 trung bình đạt 68%/năm.