| Hotline: 0983.970.780

Xây dựng nền nông nghiệp sinh thái đa giá trị

Biến nguồn thải thành nguồn thu

Thứ Tư 09/03/2022 , 07:58 (GMT+7)

Được xem là công cụ chính trong tiến trình chuyển đổi sang các hệ thống lương thực bền vững, nông nghiệp sinh thái ngày càng khẳng định tầm quan trọng tại Việt Nam.

Công nhân sản xuất rau trong nhà lưới.

Công nhân sản xuất rau trong nhà lưới.

10 yếu tố cấu thành

Các hệ thống lương thực thực phẩm và nông nghiệp ngày nay đã thành công trong việc cung cấp khối lượng lớn lương thực thực phẩm cho thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, những hệ thống nông nghiệp cần nhiều đầu vào từ bên ngoài và sử dụng nhiều tài nguyên đã gây ra nạn phá rừng, khan hiếm nước, mất da dạng sinh học, cạn kiệt đất đai và phát thải khí nhà kính. 

Là một phần trong phản ứng toàn cầu với tình trạng khí hậu bất ổn, nông nghiệp sinh thái là cách tiếp cận độc đáo để đáp ứng mức gia tăng lớn về nhu cầu lương thực trong tương lai. Theo định nghĩa của FAO, nông nghiệp sinh thái là một cách tiếp cận tổng hợp, cùng lúc áp dụng cả khái niệm và nguyên tắc về kinh tế, xã hội vào thiết kế, quản lý hệ thống lương thực thực phẩm cũng như nông nghiệp. Nông nghiệp sinh thái tìm cách tối ưu hóa quan hệ tương tác giữa thực vật, động vật, con người và môi trường trong khi cân nhắc các khía cạnh khác, giúp xây dựng một hệ thống bền vững và bình đẳng.

Được nêu ra trong các tài liệu khoa học từ những năm 1920, nông nghiệp sinh thái hiện được chia làm 10 thành tố là tính đa dạng, chia sẻ kiến thức và đồng khởi tạo, tính cộng hưởng, tính hiệu quả, sự tái tạo, sức chống chịu, giá trị xã hội nhân văn, truyền thống ẩm thực và văn hóa, quản trị có trách nhiệm, kinh tế tuần hoàn và vững chắc.

Khác với một số phương pháp tiếp cận khác trong phát triển bền vững, nông nghiệp sinh thái dựa vào quy trình từ dưới lên và theo lãnh thổ, trong đó nhấn mạnh tới việc cung cấp các giải pháp phù hợp với hoàn cảnh cho các vấn đề địa phương. Đổi mới của nông nghiệp sinh thái dựa trên sự đồng sáng tạo kiến thức, kết hợp khoa học với kiến thức truyền thống và thực tiễn tại địa phương. 

PGS.TS Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam chia sẻ, trong 10 yếu tố kể trên, tính đa dạng là chìa khóa cho quá trình chuyển đổi nông nghiệp sinh thái. Từ góc độ sinh học, hệ thống nông nghiệp sinh thái tối ưu hóa sự đa dạng của các loài và tài nguyên di truyền. Ví dụ, hệ thống nông lâm nghiệp tổ chức cây bụi và cây to có độ cao và hình dạng khác nhau ở các mức hoặc tầng khoác nhau, giúp tăng đa dạng theo chiều rộng.

Trong trồng trọt, những phương pháp chủ yếu để tăng tính đa dạng như xen canh, luân canh... Trong chăn nuôi, thủy sản, tính đa dạng cũng được áp dụng trong các mô hình như kết hợp nhiều loại động vật nhai lại giúp giảm rủi ro sức khỏe do ký sinh trùng.

"Trên cơ sở phát huy tính đa dạng và những thành tố khác, nền nông nghiệp sẽ đạt được điểm hiệu quả", PGS. TS. Đào Thế Anh nhấn mạnh. Đây là tiền đề giúp một nền nông nghiệp sản xuất được nhiều hơn, nhưng sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn. Nó cũng góp phần giải quyết những vấn đề tồn tại cố hữu như 50% phân đạm bón vào đất bị thất thoát ra môi trường bên ngoài, dẫn tới nhiều hệ lụy cho con người, thảm thực vật, và động vật sống xung quanh.

Tại Việt Nam, 6 nhóm nông nghiệp sinh thái đã phát triển gồm: nông lâm kết hợp, quản lý sâu bệnh tổng hợp (IPHM), hệ thống thâm canh lúa cải tiến, hệ thống kế hợp trồng trọt - chăn nuôi/thủy sản, canh tác hữu cơ, và nông nghiệp bảo tồn cảnh quan.

Xã Đăk Krong có khung cảnh thiên nhiên trù phú, phù hợp với mô hình cà phê cảnh quan.

Xã Đăk Krong có khung cảnh thiên nhiên trù phú, phù hợp với mô hình cà phê cảnh quan.

Biến nguồn thải thành nguồn thu

Tại Tây Nguyên, nhiều mô hình nông lâm kết hợp gắn với bảo vệ rừng, thích ứng với biến đổi khí hậu, chống xói mòn đất đã triển khai thành công như: mô hình chăn nuôi đàn gia súc dưới tán rừng, trồng xen cây cà phê với cây ăn quả, cà phê trồng xen muồng đen, trang trại lớn gắn với công tác bảo vệ rừng....

Nông sản nổi tiếng nhất tại Tây Nguyên là cà phê, chiếm hơn 90% tổng sản lượng cả nước, giúp Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, đây cũng là nguồn phát thải các bon lớn do người dân chưa có kinh nghiệm sử dụng lượng phân bón, nước và năng lượng một cách hiệu quả, bền vững.

Nghiên cứu của Tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững (IDH) chỉ ra, các trang trại trồng độc canh cà phê là nguồn thải các bon ròng. Trung bình, để sản xuất được 1 tấn cà phê, lượng khí cacbonic thải ra tương đương vào không khí lên tới 0,37 tấn CO2 mỗi năm. 

Để cải thiện, IDH tài trợ một số dự án tại các tỉnh Đăk Lăk và Lâm Đồng thông qua sáng kiến Cảnh quan Bền vững (ISLA). Nhờ dự án này, các trang trại trồng cà phê theo phương thức đa canh, giúp triệt tiêu 0,16 tấn cacbonic khỏi bầu khí quyển mỗi năm tính trên mỗi tấn cà phê thu hoạch. Các trang trại này tạo ra lượng sinh khối lớn hơn, từ đó cô lập nhiều cacbonic hơn lượng phát thải trong quá trình sản xuất.

Qua nghiên cứu trong hai năm, từ 300 trang trại trồng cà phê, IDH khuyến nghị nông dân sử dụng mô hình canh tác đa canh với mật độ phân tán cà phê - cây trồng khác là 70 - 30. Điều này giúp duy trì sản lượng cà phê hàng năm ở mức 3 tấn/ha. Tiêu, sầu riêng và bơ là những loài cây phù hợp nhất để trồng xen canh ở mật độ này.

Bà Trần Quỳnh Chi, Giám đốc khu vực châu Á IDH.

Bà Trần Quỳnh Chi, Giám đốc khu vực châu Á IDH.

Bà Trần Quỳnh Chi, Giám đốc khu vực châu Á IDH cho biết: “Ngoài những tác động tích cực lên môi trường, người dân còn có thêm nguồn thu từ một số loại cây trồng phù hợp. Đây cũng là quan điểm của IDH trong tiếp cận cảnh quan nông nghiệp sinh thái, khi nhóm tất cả các nhà sản xuất, các bên liên quan, sở hữu và sử dụng đất trong một khu vực địa lý".

Một điểm tích cực nữa khi chuyển đổi hệ thống nông nghiệp sinh thái, là nhiều trang trại cà phê tại Tây Nguyên trở thành nguồn thu các bon, thay vì nguồn phát thải như trước. Bà Chi chia sẻ, trong số các trang trại đa canh cao, 73% có lượng phát thải các bon âm (hấp thụ nhiều hơn thải ra), trong khi chỉ 27% có lượng phát thải dương. Đối với các trang trại canh tác độc canh, bức tranh lại hoàn toàn khác khi 70% trang trại đóng vai trò là những nguồn phát các bon.

Song song với đổi mới cách tiếp cận, các trang trại cà phê Tây Nguyên còn lợi thế lớn trong phát triển du lịch. Mới đây, xã Đak Krong là một trong 5 địa điểm ở Tây Nguyên được chọn thực hiện dự án thí điểm phát triển cà phê bền vững theo phương pháp tiếp cận cảnh quan, theo sáng kiến của Dự án VnSAT nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.

FAO coi nông nghiệp sinh thái là công cụ chính trong tiến trình chuyển đổi sang các hệ thống lương thực bền vững. Để thực hiện mục tiêu này, FAO chủ trương đẩy mạnh các lớp tập huấn hiện trường, giúp người nông dân giải quyết các vấn đề cụ thể của họ, cung cấp cho họ các thông tin cần thiết và tư vấn những công cụ ra quyết định.

Một trong những thành công của FAO là tiếp thị sản phẩm gạo nếp cẩm và nếp hồng được người dân trồng trên dãy Himalaya thuộc Ấn Độ. Ở độ cao từ 1.200 đến 1.800m so với mực nước biển, những giống lúa này chủ yếu được trồng và tiêu thụ tại chỗ ở các lễ hội và hiếm khi được bán rộng rãi trên thị trường do chi phí vận chuyển, và thị hiếu chung.

Qua tìm hiểu, các chuyên gia của FAO nhận thấy, những giống lúa này có lợi ích dinh dưỡng vượt trội như giàu chất xơ, chứa nhiều chất chống oxy hóa, vitamin E, protein, sắt, và có hàm lượng đường thấp. Ban Thư ký Đối tác Miền núi của FAO đã hỗ trợ cho nông hộ trồng giống lúa này thông qua các khóa đào tạo, giới thiệu và cung cấp quy cách đóng gói bao bì và mang giống lúa tới một số triển lãm ở New Delhi để quảng bá.

Xem thêm
Bàn cách tận dụng hết dư địa cho tinh dầu quế

HÀ NỘI Thiếu hụt nhân lực có kỹ năng và chuyên môn, quy trình sản xuất chưa hoàn thiện và chưa có phương pháp tiếp cận thị trường toàn cầu là khó khăn chung của ngành quế.

Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Tập đoàn PAN đặt doanh thu 14.700 tỷ năm 2024 với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên

Trước lo ngại về biến đổi khí hậu, khó khăn chung của bối cảnh kinh tế, Tập đoàn PAN đặt mục tiêu doanh thu thận trọng tăng 12% với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm