| Hotline: 0983.970.780

Phóng sự

IX. Chuyện anh Lượm

IX. Chuyện anh Lượm

Đây xứng đáng là một câu chuyện điển hình của nhiều người Việt Nam ở Biển hồ, họ khao khát trở về quê hương nhưng hiện đang gặp muôn vàn khó khăn, cách trở.

Xóm nhỏ của làng chài người Việt trên Biển hồ Tonle Sap là những ngôi nhà nổi kề nhau san sát. Bốn bề mênh mang sóng vỗ, một nhóm chừng dăm bảy người đang ngồi uống rượu và hát karaoke. Giọng ai đó khê khê chua nhưng xem chừng cũng quằn quại, da diết lắm: Đến bao giờ trở về Việt Nam, thăm đồng lúa vàng, thăm con đò chiều hoang, đường mòn quanh co ôm chân hàng tre thắm…

Chủ nhân căn nhà nổi tên là Phạm Văn Lượm. Sở dĩ đoàn làm phim của Báo Nông nghiệp Việt Nam tìm đến đây là vì hôm trước ngồi nói chuyện với Phạm Văn Chanh dưới Kampong Thom đã nghe anh ngậm ngùi kể về hoàn cảnh gia đình mình. Một câu chuyện vừa buồn, chua xót lại nhiều khắc khoải.

 
 
Bài liên quan

Anh Chanh, anh Lượm, anh Ngón cùng với Phạm Văn Chiến là 4 anh em ruột. Gốc gác nghe kể ở huyện biên giới Tân Châu của tỉnh Tây Ninh nhưng nói chuyện quê hương họ gần như không có ký ức gì. Cũng may trong đoàn làm phim có nhà báo Lê Thiếu Nhơn nên chúng tôi mới có thêm nhiều thông tin về vùng đất ấy.

Anh Nhơn kể mình cũng đã nhiều lần về biên giới Tây Nam, cách Sài Gòn độ khoảng hơn trăm cây số. Đó là một trong những vùng đất lắm tang thương dưới tội ác tày trời của thảm họa diệt chủng Pol Pot và phong trào Khmer Đỏ. Những năm sau ngày đất nước thống nhất, hầu hết những miền quê đất Việt đã sạch bóng quân thù nhưng Tân Châu nói riêng và biên giới Tây Nam nói chung vẫn là mồ chôn của không biết bao nhiêu sinh mạng. Vùng đất của người Khmer mà lại chứng kiến những cuộc thảm sát của người Khmer.

Ngày nay, ở sát bên Quốc lộ 22B đi qua huyện Tân Biên vẫn còn tấm bia chứng tích ghi rằng: Lúc 0 giờ 15 phút ngày 25/9/1977, quân Pol Pot - Ieng Sari đã xâm lược biên giới Việt Nam tại xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. 592 người đã bị cướp đi mạng sống… Rồi những An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An… dọc biên giới Tây Nam có rất nhiều những vùng đất đau thương như thế. Khi bộ đội ta kéo vào đánh đuổi quân Khmer Đỏ, người dân vì quá sợ hãi quân của Pol Pot nên phải bám chân theo. Quân giải phóng đi đến đâu nhân dân theo đến đó và có lẽ cũng vì thế mà người Việt ở trên Biển hồ này rất nhiều.

 

Quá khứ đau thương những người như anh Chanh, anh Lượm, anh Ngón nói chỉ nghe kể mang máng, bởi vì từ bé họ đã cùng nhau lớn lên ở trên Biển hồ Tonle Sap. Cha mẹ họ cũng từng là “công dân Tonle Sap”, dù không nhớ rõ đến đây năm nào nhưng có lẽ là vào giai đoạn đau thương như lời anh Nhơn kể. Cuộc sống trên sóng nước Biển hồ cứ trôi theo bọt nước qua năm tháng. Hai ông bà sinh được cả thảy 9 người con, 4 trai và 5 gái, vì nhiều hoàn cảnh khác nhau nên sau đó chỉ còn lại 4 anh con trai ở lại nơi này, tiếp tục lênh đênh trên những con thuyền đánh cá giống như bao “thế hệ F1” có gốc gác Việt Nam. Và có lẽ cuộc đời họ sẽ mãi gắn với Biển hồ này nếu Vương quốc Campuchia không có chính sách di dời người Việt ra khỏi Tonle Sap. Một chính sách gây ra nhiều xáo trộn với cuộc sống của đồng bào gốc Việt. Những làng chài bị giải tỏa, di dời, xóa bỏ, những phận người buộc phải “bốc” lên bờ. Một số được đưa về các vùng lòng hồ thủy điện ở Việt Nam, số khác được đưa vào làm công nhân ở các công ty Việt Nam sang bên này trồng cao su, trồng cây ăn quả.

“Bốn anh em họ Phạm” bắt đầu mỗi người một ngả. Mấy năm trước gia đình anh Chanh và anh Ngón kịp bán nhà cửa, ghe thuyền rồi dắt díu nhau xuống Kampong Thom làm công nhân cao su. Anh Lượm gá nghĩa cùng chị Ngveing Thy Kong sinh được 3 đưa con, đứa lớn nay đã 19 tuổi, đứa nhỏ mới lên năm, cùng với hơn 300 hộ dân lay lắt bám trụ lại làng chài này. 5 người cùng nhau sống trên một căn nhà nổi rộng đâu tầm hai ba chục mét vuông, dựa hoàn toàn vào những chuyến quăng lưới, buông câu trong nỗi lo âu, thấp thỏm không biết sẽ bị "bế" đi lúc nào.

 

Một ngày của họ bắt đầu từ sáng sớm tinh mơ, anh Lượm cùng đứa con trai đầu tên Phạm Văn Dương 19 tuổi hoặc đứa thứ hai mới chỉ lên mười nổ máy thuyền ra Biển hồ đánh cá. Bố quăng câu, bủa lưới, con ngồi lái thuyền, những năm trước cá tôm còn nhiều đến trưa đã có thể trở về nhưng gần đây chuyến nào cũng phải đi đến lúc trời tối mịt. “Gần 40 năm sống trên Biển hồ này chưa thấy khi nào cuộc sống lại khó khăn như lúc này cả”, anh Lượm thở dài rồi lái thuyền đưa chúng tôi ra vùng đánh bắt của người Việt.

Hành trang của chuyến “ra khơi” lần này là gần 100m lưới. Theo như lời của cha con họ, quy định của Chính phủ Campuchia cấm người dân kéo cào, giật điện, chỉ cho phép người Việt đánh bắt ở những vùng chưa có ai thuê hoặc những vùng giáp với cửa sông nên chỉ được đánh loại lưới bé tí ti này. Cá lớn cũng còn nhưng thường chỉ có ở những vùng nước lớn, nơi người Việt mình không vào được. Còn lại mấy chỗ này toàn cá cơm. Ngày cố lắm may ra kiếm được khoảng trăm ngàn riel, còn thường thường chỉ có dăm ba chục ngàn. Năm nay giá xăng dầu cộng với mấy thứ chi phí lặt vặt khác cũng cao hơn nữa, mỗi chuyến đi thế này mất toi bảy tám chục ngàn riel rồi, bảo sao càng làm càng thiếu nợ người ta. Đó các anh xem, sáng đến giờ thuyền chạy bủa lưới liên tục vậy mà cũng được mấy cân cá cơm thôi à.

Đi sang một số thuyền đánh cá khác của dân làng chài Tonle Sap cũng chẳng thấy khá khẩm gì hơn. Chuyến “ra khơi” với chúng tôi của bố con anh Lượm kết thúc sớm hơn thường lệ. Có ít cá mang về chị Thy Kong đem nghiền làm bột bán cho người ta. May ra được khoảng hai chục ngàn riel, khoảng 120 nghìn tiền Việt là cùng. Mưu sinh khó khăn, sinh hoạt hàng ngày cũng ảnh hưởng ghê gớm. Sống ở đất khách quê người phải chịu sự chèn ép đủ đường. Mua lưới, mua cá người ta thách lên thách xuống. Nhiều năm trước người Việt và người Campuchia ở các làng chài còn ở xen kẽ với nhau, dần dà họ đưa người Cam lên bờ trước sau đó cứ biệt lập người mình dần, dồn đến những khu vực ít cá tôm như ở đây. Cũng may nhờ biết đùm bọc nhau nên gặp cảnh túng bấn nhà này hỗ trợ nhà kia, tất nhiên là chật vật qua ngày thế thôi chứ chưa bao giờ có tích cóp được gì. Chán chường đến nỗi mấy năm nay nhiều cư dân Việt ở các làng chài Tonle Sap bỏ tưới bỏ ghe, mặc cuộc sống muốn đến đâu thì đến.

 
 

Trò chuyện với họ thấy rằng hầu hết mọi người đều muốn trở về Việt Nam, thực tế cũng có nhiều người trở về rồi nhưng thủ tục giấy tờ rất phức tạp. Có những người ra đi từ bé, có người sinh ra ở trên này, ông bà, bố mẹ chết đi nằm lại ở đây, không ai chứng nhận gốc gác cho chứ đừng nói là giấy tờ tùy thân. Thành thử có về được cũng là kiểu về chui về lủi. Chưa kể cuộc sống vốn quen với sông nước trên này, lên bờ hay về nước làm gì để sống quả thật rất khó.

Anh Lượm nói đau buồn nhất là năm ngoái, bố đẻ của các anh ở bên Việt Nam mất nhưng vì dịch bệnh Covid-19 phức tạp cả ba anh em đều không về được. Mẹ già ở quê khóc hết nước mắt đã đành, ba anh em bên đây cũng như thể đứt từng khúc ruột. Trong tâm khảm vẫn thường nói với nhau, dù cuộc sống khó khăn đến mấy thì cũng luôn mong mỏi sẽ có một ngày đủ điều kiện về quê để chăm lo, đỡ đần cha mẹ. Vậy mà rồi không một ai được gặp người cha già lần cuối. Ngày ông mất anh em chỉ biết lập ban thờ, vừa khóc vừa quỳ lạy từ xa xin cha thứ cho tội làm con bất hiếu.

“Nghe những người về Việt Nam sang đây kể, do không có giấy tờ thủ tục nên từ đây về qua biên giới đã phải mất nhiều tiền để người khác đưa đi chui. Về đến quê nhà địa phương cũng không có căn cứ nào để làm giấy tờ, căn cước công dân cũng chẳng có nên không làm được hộ khẩu. Về rồi lại phải đi là vì thế. Cha mẹ khốn khổ quen rồi nhưng nghĩ thương con cái, tương lai chúng không biết rồi đây sẽ như thế nào”, anh Lượm nói, chực như muốn khóc.

“Cuộc sống mưu sinh mỗi ngày một khó, lại thêm cảnh mấy chục năm cha mẹ, con cái, anh em ly tán mỗi người một nơi nên ai cũng muốn trở về nhưng không về được”, anh Lượm rưng rưng. Hỏi lý do không thể về, khắp các làng chài người Việt ở Tonle Sap đều chịu.

 

Giữa làng chài ở Tonle Sap có một ngôi trường dạy học cho con em người Việt Nam sinh sống tại đây. Đặc biệt ở chỗ đó vừa là Trường tiểu học Biển hồ, Vương quốc Campuchia vừa Trường tiểu học Việt Nam lại vừa là trung tâm giáo dục và từ thiện nuôi dạy trẻ em nghèo. Thầy giáo phụ trách Nguyễn Minh Luân thông tin, ngôi trường này do Hội người Campuchia gốc Việt sáng lập. Ban đầu cơ sở vật chất gần như không có gì, cũng may nhờ được Bộ Tư lệnh Quân khu 7 Việt Nam quan tâm đầu tư xây dựng, hiện đang là nơi dạy học và cưu mang 126 em học sinh ở Biển hồ.

Thầy Luân quê cũng ở xã Hòa Hiệp, huyện biên giới Tân Biên của tỉnh Tây Ninh, vốn là sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm ở bên quê nhà. Năm 2007 theo người chú sang đây buôn bán nhìn thấy cảnh học sinh bên này vất vả, thiếu thốn quá trời nên tình nguyện ở lại dạy học cùng với người thầy đầu tiên của trường là Hiệu trưởng Trần Văn Tư. Người dạy buổi sáng, người buổi chiều, học sinh đủ lứa tuổi khác nhau, vận động được gia đình đứa nào thì đưa đến học đứa đó thành thử có những em cách nhau cả chục tuổi vẫn học chung một lớp là bình thường. Dần dà ngôi trường đặc biệt này đã có 7 thầy cô giáo, trong đó có 4 giáo viên Việt Nam và 3 giáo viên Campuchia, nhưng như lời thầy Luân chia sẻ thì việc học ở đây xem ra còn quá gian truân.

 

“Trẻ em ở đây ngày trước đa số không có điều kiện để được học hành. Ngày trước gia đình nào bố mẹ, ông bà biết chữ thì dạy lại cho con cái biết đọc biết viết thế thôi chứ có trường có lớp gì đâu. Kể từ khi thành lập đến nay trường cũng nhận được nhiều sự quan tâm của cộng đồng, chính quyền các cấp và hội người Việt bên này nên mới vận động các em đến trường. Vừa để học tập vừa có điều kiện giao lưu, tiếp xúc nhiều hơn với xã hội. Các hoạt động đều dựa vào sự hỗ trợ của cộng đồng nên còn vất vả lắm. Mặc dù nhà trường hay Hội người Việt luôn tạo điều kiện để có em có thể học lên nhưng thông thường chỉ đến lớp 5 là các em đã nghỉ học rồi, hiếm hoi lắm mới có em học đến lớp 8”, thầy Luân nói.

Cũng vì hoạt động chủ yếu dựa vào mấy nguồn hỗ trợ cộng đồng, lại mấy năm dịch Covid-19 khách du lịch ít đến Biển hồ nên các nguồn hỗ trợ cũng giảm đi. Nhất là khi thầy Trần Văn Tư mất, các đầu mối hỗ trợ các cháu thường xuyên bị gián đoạn, vận động các cháu đến trường càng thêm vất vả. Trẻ con Biển hồ sống đời sông nước, lên năm lên bảy đã như con rái cá rồi nhưng cũng vì cuộc sống ngày càng khó khăn nên nhiều đứa không muốn đến trường nữa. Chẳng đâu xa, mấy đứa con gia đình anh Lượm không có đứa nào học quá lớp 3. Lớn nhất là thằng Dương đã 19 tuổi nhưng trình độ cũng chỉ ở mức biết đọc biết viết. Hỏi sao không cố mà học lên bèn nghe nó hỏi ngược lại học để làm gì. "Cuộc sống ở đây giờ quá khó khăn, bạn bè con chúng nó đi làm công nhân hết cả rồi, con cũng muốn về dưới với chúng nó, muốn về Việt Nam chứ ở đây khổ quá, học nữa thì không có tiền", Dương tâm sự.

 

Nghe con cái nói mà buốt lòng buốt dạ. Anh Lượm cũng chia sẻ thêm, sau khi anh Ngón và anh Chanh về dưới làm công nhân cao su thấy cuộc sống đỡ đần hơn rất nhiều. Có nhà để ở, có công ăn việc làm, con cái được học hành đầy đủ. Các anh cũng điện lên nói về dưới nhưng nguyện vọng của vợ con muốn được trở về Việt Nam, trở về quê hương bản quán để ít nhất cũng có đủ giấy tờ tùy thân rồi đi đâu, làm gì mới tính. Nói rồi anh nổ máy ghe đưa chúng tôi ra cánh rừng ngập nước cạnh chiếc cổng làng cũng ngập lên đến đỉnh. Dưới sóng nước Biển hồ ấy là nơi nằm lại của những người Việt xa xứ luôn khắc khoải nỗi nhớ quê nhà ngay cả khi đã thành người thiên cổ. Ai ở đây còn sống cũng dặn dò con cháu cố gắng làm ăn để sau này đưa tro cốt ông bà cha mẹ trở về quê nhưng không có nhiều người thực hiện được. Người sống còn mải lo cái ăn, cái mặc ngày càng đã khó nên người chết cũng phải chờ chứ biết làm sao?

"Nhiều lúc chỉ ước được như con cá linh. Chúng thường đẻ trứng ở trên Biển hồ này rồi theo dòng nước về bên Việt Nam, còn mình, muốn về lại không về được", anh Lượm buồn rầu. 

 

Câu chuyện của gia đình anh Phạm Văn Lượm khiến chúng tôi ám ảnh suốt hành trình trở về Việt Nam. Biển hồ mênh mông không còn khả năng che chở và cưu mang những số phận người Việt tha phương cầu thực chăng? Nếu những người đã quen lênh đênh trên sóng nước phải lạc lõng đối mặt với cuộc sống trên bờ, thì lẽ nào ước mong hồi hương của họ cũng xa vời vợi? Khi nhắc về người mẹ bơ vơ sau khi người cha qua đời vào tháng 4/2021, anh Phạm Văn Lượm lạc giọng đi, khiến chúng tôi không nỡ hỏi thêm vì sợ anh bật khóc. Mẹ tôi tên là Đỗ Thị Phúc, quê ở ấp Tà Dơ, xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Nhờ các anh về bên đó tìm hiểu xem có cách nào giúp đỡ cho chúng tôi, những người Việt ở Biển hồ được trở về quê hương với, chúng tôi biết ơn nhiều lắm.

Lời cậy nhờ cùng với thắc mắc không biết người mẹ ấy hiện giờ đang sống ra sao? Liệu dọc biên giới Tây Nam có bao nhiêu gia đình tứ tán như gia đình anh Lượm khiến đoàn làm phim Báo Nông nghiệp Việt Nam quyết định sau khi qua cửa khẩu Mộc Bài sẽ đến ấp Tà Dơ, xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh để tìm bà Đỗ Thị Phúc.

Nơi bà Đỗ Thị Phúc đang cư ngụ là một căn nhà tuềnh toàng trong xóm Việt kiều Campuchia. Ở tỉnh Tây Ninh có hai xóm Việt kiều Campuchia, một ở huyện Dương Minh Châu và một ở huyện Tân Châu. Điểm chung của hai khu tái định cư này là đều xây dựng ven hồ Dầu Tiếng, cũng là một sự sắp đặt khéo léo của chính quyền để những người dân từ Biển hồ tránh được cảm giác xa lạ trong quá trình tạo lập cuộc sống mới.

Bà Phúc năm nay 70 tuổi, có khuôn mặt không hẳn già nua hơn so với ngưỡng thất thập cổ lai hy. Thế nhưng, đôi mắt của bà lúc nào cũng trông thật buồn. Nhìn vào đôi mắt ấy, không khó để nhận ra một số phận lưu lạc và vất vả.

Bà Đỗ Thị Phúc kể: “Tui từ nhỏ theo gia đình ngược dòng Mekong từ Đồng Tháp lên Biển hồ. Đến tuổi lấy chồng thì gặp bố thằng Lượm cũng ở trên đó. Chồng tui biết ít chữ, cũng có tranh thủ dạy học cho các con, nhưng rồi cuộc sống mệt mỏi kiếm ăn nên không đứa nào viết được tên mình. Muốn giao dịch gì đều ấn dấu tay thôi. Đầu năm 2020, vợ chồng tui thấy Biển hồ không còn dễ sinh tồn nữa nên chạy vạy kiếm chút tiền hồi hương. 9 đứa con đứa nào đứa nấy đều đã có gia đình riêng nhưng muốn đỡ đần cha mẹ chút đỉnh cũng khó vì đều hoàn cảnh hết. Gia đình 5 đứa con gái về đợt cùng với cha mẹ. Sau đó ông mất thì thằng Chiến cũng về đây rồi. Chỉ còn 3 thằng con trai bên kia. Thằng Ngón và thằng Chanh cưới vợ Campuchia có chút nương nhờ phía nhà vợ chứ thằng Lượm thì khổ lắm. Tội nghiệp thằng Lượm, tui lo cho nó quá...”.

Trùng hợp ngẫu nhiên, khi bà Đỗ Thị Phúc đang trò chuyện với chúng tôi, thì con trai anh Lượm là Phạm Văn Dương gọi điện thoại từ Biển hồ về để hỏi thăm sức khỏe bà nội. Nhìn đứa cháu nội hồ hởi qua video call, khuôn mặt bà thoáng lên chút niềm vui hiếm hoi. Hết cuộc điện thoại, bà quay sang chúng tôi nói giọng trầm buồn: “Bây giờ tui chỉ mơ ước có hộ khẩu ở đây, để cho gia đình thằng Lượm nhập hộ khẩu theo tui mà có giấy tờ hợp pháp. Thân tui giờ bệnh tật đầy người, mai mốt tui chết, không biết tụi nó có tiền về không, hay lại như...”. 

Bà Phúc bỏ lửng câu nói, nhìn bâng quơ ra phía mặt hồ Dầu Tiếng xanh mờ trong ánh chiều sắp buông. Trong đôi mắt bà mẹ Việt gieo neo ấy, Biển hồ Tonle Sap vẫn ở rất xa, thương nhớ cũng đang ở rất xa...

Bà Đỗ Thị Phúc.

Bà Đỗ Thị Phúc.

Hoàng Anh - Lê Thiếu Nhơn
Trương Khánh Thiện
Quang Dũng- Văn Vũ
.
Xem thêm

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm