| Hotline: 0983.970.780

Khoa học, công nghệ giúp dừa Bến Tre nâng tầm thế giới

Thứ Ba 08/06/2021 , 17:00 (GMT+7)

Ứng dụng khoa học công nghệ đã giúp nhiều sản phẩm dừa của Bến Tre tăng giá trị hàng chục, thậm chí hàng trăm lần. Dừa Bến Tre từng bước nâng tầm thế giới.

Gía trị tăng nhiều lần nhờ chế biến sâu

Những năm trước đây, công nghệ và thiết bị ngành công nghiệp chế biến dừa của Bến Tre còn thô sơ, sản xuất hoàn toàn bằng thủ công, trình độ chỉ ở mức thấp đến trung bình. Các sản phẩm chế biến từ dừa có giá trị thấp, gặp khó khăn khi gia nhập vào thị trường xuất khẩu.

Chế tạo máy se chỉ xơ dừa. Ảnh: LHV.

Chế tạo máy se chỉ xơ dừa. Ảnh: LHV.

Hiện nay, nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, ngành công nghiệp chế biến dừa ở Bến Tre đã có bước tiến bộ vượt bậc, đưa ngành này nhanh chóng hội nhập với ngành chế biến dừa thế giới. Công nghệ chế biến đổi mới đã giúp đa dạng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Ông Nguyễn Hữu Lập, nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre đánh giá: Bến Tre tự hào có công nghệ chế dừa tiên tiến. Nếu như 10 năm trước, công nghệ chế biến dừa của Bến Tre lạc hậu hơn Sri Lanka khoảng 10 năm thì đến nay, các chuyên gia của Sri lanka cho biết công nghệ chế biến dừa của chúng ta đã đi trước họ 10 năm.

Những dòng sản phẩm cao cấp, có bước chuẩn hóa tốt về mặt chất lượng, chủng loại và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm chế biến từ dừa như sữa dừa, kem dừa, dầu dừa tinh khiết và các sản phẩm từ dầu dừa tinh khiết… đã xuất khẩu đến nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Đến quý I/2021, Bến Tre có gần 74.000 ha dừa, tăng hơn 1.500 ha so với cùng kỳ năm trước. Năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp dừa đạt 5.880 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 347 triệu USD, tăng mạnh so với các năm.

Công ty TNHH Dừa Đông Dương (ở ấp Tân An, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày Bắc), đơn vị sản xuất thảm xơ dừa lớn nhất tỉnh Bến Tre, có doanh thu hàng tháng khoảng 5 tỷ đồng. Ông Lê Thanh Tiến, Giám đốc doanh nghiệp này chia sẻ: Trước đây, đơn vị chủ yếu sản xuất thảm xơ dừa bằng phương pháp thủ công là chủ yếu.

Xe chỉ xơ dừa làm nguyên liệu dệt thảo xơ dừa. Ảnh: Minh Đảm.

Xe chỉ xơ dừa làm nguyên liệu dệt thảo xơ dừa. Ảnh: Minh Đảm.

Hiện nay, qua áp dụng công nghệ mới, công ty đã tự nghiên cứu cải tiến, chế tạo máy se chỉ xơ dừa đơn và đôi, bện dây thừng phục vụ nguồn nguyên liệu dệt thảm xuất khẩu. Từ chỉ xơ dừa có giá trị khoảng 3.000 đồng/kg, qua các công đoạn trở thành tấm thảm xuất khẩu có giá trị trên 10.000 đồng/kg, xuất khẩu nhiều nơi trên thị trường thế giới.

Nhờ chế biến, giá trị gia tăng các sản phẩm chế biến từ dừa đã tăng lên nhiều lần. Điển hình như sản phẩm cơm dừa nạo sấy có giá trị xuất khẩu cao gấp 5 lần so với dừa trái.

So với cơm dừa nạo sấy thì sản phẩm bột sữa dừa có giá trị cao gấp 4 lần; sữa dừa, kem dừa có giá trị cao gấp 2 lần.

Riêng sản phẩm dầu dừa tinh khiết có giá trị cao gấp 10 lần dầu dừa thô. Chỉ xơ dừa cứng, chỉ xơ đơn và đôi, dây thừng từ dừa có giá trị xuất khẩu cao gấp 3 - 4 lần chỉ xơ thô.

Xơ dừa phun cao su đã tăng giá trị lên 10 lần sau khi chế biến từ chỉ xơ thô. Đặc biệt, nước dừa đóng hộp có giá trị cao gấp 300 lần so với nước dừa tươi truyền thống.

Chế biến dừa đi vào chiều sâu

Toàn tỉnh Bến Tre hiện có khoảng 182 doanh nghiệp sản xuất chế biến các sản phẩm từ dừa, với nhiều loại hình, quy mô hoạt động đa dạng. Một số ngành chính như chế biến vỏ dừa, gáo dừa, cơm dừa, nước dừa chiếm 28,52% tổng số doanh nghiệp có hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh, giải quyết việc làm cho hơn 9.500 lao động.

Sơ chế dừa tươi đóng gói xuất khẩu. Ảnh: TL.

Sơ chế dừa tươi đóng gói xuất khẩu. Ảnh: TL.

Để đáp ứng nhu cầu thị trường, thời gian qua, các doanh nghiệp đã không ngừng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, nghiên cứu sản phẩm mới… Qua 5 năm triển khai, cơ cấu mặt hàng các sản phẩm từ dừa đang có sự thay đổi.

Lượng sản phẩm truyền thống có xu hướng giảm như kẹo dừa, chỉ xơ dừa, cơm dừa nạo sấy. Các mặt hàng mới đang có xu hướng tăng khá như sữa dừa, nước dừa đóng hộp, lon, than hoạt tính, dầu dừa...

Ông Đặng Văn Cử, Phó phòng Kế hoạch Tài chính (Sở KH-CN Bến Tre) cho biết: Phát triển nhiều sản phẩm mới đã mang lại giá trị cao cho ngành công nghiệp chế biến dừa và đáp ứng đa dạng nhu cầu sử dụng, thân thiện môi trường.

Các sản phẩm nổi bật như dầu dừa tinh khiết, mặt nạ dừa, nước rửa tay dưỡng da từ dầu dừa, sản xuất giấy từ tàu dừa làm bao bì, giỏ xách, trang trí nội thất, tranh nghệ thuật, thư pháp… đã thay thế các loại sản phẩm bằng nhựa, nylon và những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng tốt cho sức khỏe như mật hoa dừa. Mật hoa dừa có thể chế biến thành các sản phẩm như đường, giấm, rượu vang, rượu cao độ, thức uống nhẹ..., phù hợp xu hướng tiêu dùng hiện nay.

Hoạt động chế biến, tiêu thụ dừa trái ngày càng tăng. Hiện tại công suất chế biến đã vượt xa sản lượng dừa khô thu hoạch của tỉnh. Công suất các nhà máy chế biến hiện tại có khả năng tiêu thụ 1.254 triệu trái dừa/năm. Năm 2020 đã chế biến khoảng 584 triệu trái dừa, tương đương 109% sản lượng dừa khô trái thu hoạch của tỉnh.

Khoa học công nghệ giúp nâng cao giá trị quả dừa

Theo tiến sỹ Lâm Văn Tân, Giám đốc Sở KH-CN tỉnh Bến Tre: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo chuỗi giá trị trên địa bàn tỉnh bước đầu đã tạo được sự chuyển biến tích cực. Việc nhập nội nguồn gen cây dừa và bình tuyển cây đầu dòng đã cung cấp nhanh số lượng lớn các cây dừa giống đủ tiêu chuẩn, cây giống đã thích nghi tự nhiên với các điều kiện sinh thái.

Bên cạnh đó, đã tập trung nghiên cứu toàn diện chuỗi giá trị cây dừa, đặc biệt là các nghiên cứu về giá trị dinh dưỡng, công dụng và chuyển giao công nghệ chế biến các sản phẩm từ dừa có giá trị kinh tế cao.

Ngoài ra, các ngành chức năng của tỉnh cũng nghiên cứu các mô hình liên kết ngang và dọc trong nông nghiệp, thị trường tiêu thụ dừa, sản phẩm từ dừa trên thế giới, các hình thức hợp tác và phân phối sản phẩm trên thị trường thế giới, …

Sản phẩm cơm dừa sấy giòn, giúp nâng cao giá trị cơm dừa. Ảnh: LHV.

Sản phẩm cơm dừa sấy giòn, giúp nâng cao giá trị cơm dừa. Ảnh: LHV.

Trong ứng dụng và đổi mới thiết bị công nghệ, các ngành chức năng Bến Tre đã tổ chức nhân nhanh các giống dừa có năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng kháng bệnh, chống chịu với các điều kiện sinh thái bất lợi.

Cùng với đó, tỉnh cũng triển khai, nhân rộng mô hình khắc phục hiện tượng dừa không mang trái (dừa treo), cải thiện năng suất dừa lấy dầu, quy trình quản lý theo hướng sinh học đối với bọ vòi voi, sâu đục trái… gây hại trên cây dừa. Nhân nuôi và phóng thích loài ong ký sinh Tetrastichus brontispae ký sinh nhộng bọ cánh cứng hại dừa.

Các doanh nghiệp địa phương ứng dụng, nhân rộng máy lột vỏ gỗ sọ dừa, máy lột vỏ nâu, thiết bị sấy chỉ xơ dừa, cải tiến và hoàn thiện thiết bị cắt gọt dừa uống nước. Ngành chức năng cũng chuyển giao thiết bị theo công nghệ nạo, ép nhỏ trực tiếp để sản xuất dầu dừa nguyên sinh quy mô nhỏ và phát triển công nghệ sấy tầng sôi sản phẩm cơm dừa nạo sấy.

Đối với dừa tươi uống nước, các doanh nghiệp chế biến xây dựng mô hình bảo quản và ứng dụng công nghệ tiệt trùng UHT (xử lý nhiệt độ cao) trực tiếp của Tetra Pak, giúp nước dừa sau khi được chế biến vẫn giữ mùi vị, màu sắc tự nhiên, giá trị dinh dưỡng vốn có.

Sở KH-CN Bến Tre cũng nâng cấp, phát triển mạnh các sản phẩm từ phế phụ phẩm dừa như: Đất sạch dinh dưỡng, phân bón hữu cơ từ mụn dừa, than cám.

Thời gian qua, Bến Tre cũng đã triển khai xây dựng các mô hình liên kết tiên tiến trong canh tác, sản xuất và thương mại của ngành dừa.

Đối với các vùng trồng dừa và các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất và kinh doanh các sản phẩm từ dừa, được hỗ trợ kinh phí xây dựng, áp dụng và chứng nhận lần đầu tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm