15 năm và 199 giống mới được công nhận
Sáng qua (28/6), tại Hà Nội, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã tổ chức Hội thảo Khoa học công nghệ lâm nghiệp góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu ngành.
Theo GS, TS Võ Đại Hải, GĐ Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam, tốc độ tăng trưởng của ngành lâm nghiệp liên tục tăng trong những những năm qua, từ 5,03% giai đoạn 2010 – 2012 lên 7,8% năm 2015. Kim ngạch XK gỗ và đồ gỗ có tốc độ tăng trưởng trung bình 15%/năm, năm 2014 đạt 6,3 tỷ USD. Công tác trồng rừng tiếp tục được triển khai. Trong giai đoạn 2002 - 2014, diện tích trồng rừng trồng đã tăng từ 1,92 triệu ha lên gần 3,7 triệu ha (trung bình tăng 148.000 ha/năm). Đến năm 2015 đã có gần 170.000 ha rừng được cấp chứng chỉ...
Tuy nhiên, GS.TS Võ Đại Hải cũng chỉ ra nhiều tồn tại của ngành lâm nghiệp. Thứ nhất, chỉ có khoảng 25 – 30% giống mới được áp dụng vào sản xuất. Rừng trồng chủ yếu là rừng gỗ nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Rừng tự nhiên chủ yếu là rừng nghèo và nghèo kiệt (chiếm 70% diện tích). Hiện tại phần lớn chỉ áp dụng biện pháp khoanh nuôi bảo vệ không tác động, bởi vậy, khả năng phục hồi rất chậm, nhiều chủ rừng muốn trả lại các diện tích rừng tự nhiên nghèo không được khai thác.
Một trong những thành tựu đáng ghi nhận của ngành lâm nghiệp trong những năm qua là công tác nghiên cứu giống. Theo TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp, chỉ trong 15 năm trở lại đây, đã có 199 giống cây lâm nghiệp được công nhận là giống quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật. Nghiên cứu nhân giống bằng giâm hom và nuôi cấy mô cũng đã có những bước tiến vượt bậc.
Đến nay, hầu như các giống keo và bạch đàn đã được sản xuất đại trà bằng công nghệ mô-hom, qua đó đã góp phần nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng (có nơi năng suất đạt trên 30 m3/ha/năm). So với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia (những nước tiến hành nghiên cứu cải thiện giống cùng thời) thì Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, đặc biệt trong công tác chọn tạo giống mới và nhân giống bằng nuôi cấy mô.
Nâng cao chất lượng gỗ Việt
Tuy nhiên, TS Nguyễn Đức Kiên cũng cho rằng: Mặc dù đã tạo ra được nhiều giống mới được công nhận nhưng công tác chuyển giao giống vào sản xuất còn nhiều bất cập. Cụ thể, trong số 199 giống được công nhận, chỉ có 40 giống đang được sử dụng rộng rãi trong sản xuất bao gồm các giống keo lai tự nhiên, keo tai tượng, một số giống bạch đàn lai UP, bạch đàn URO và mắc ca. Phần lớn các giống còn lại chưa được chuyển giao và phát huy hiệu quả trong sản xuất.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ gen trong nghiên cứu giống cây lâm nghiệp cũng còn hạn chế, chưa tạo ra được giống biến đổi gen, chưa có nhiều nghiên cứu cơ sở, cơ bản liên quan đến biến nạp gen ở cây lâm nghiệp cũng như ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn lọc sớm hoặc chọn giống theo các mục tiêu sử dụng gỗ khác nhau.
TS Trần Lâm Đồng, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Lâm sinh cho biết: Năm 2014, Việt Nam XK 6,97 tấn dăm khô, tương đương 13,9 triệu m3 gỗ nguyên liệu với tổng giá trị XK đạt xấp xỉ 1 tỷ USD. Việt Nam cũng là quốc gia XK đồ gỗ lớn với tổng giá trị XK năm 2014 là 6,32 tỷ USD. Nhưng lượng gỗ xẻ từ rừng trồng cây mọc nhanh và thanh lý rừng cao su mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% lượng gỗ nguyên liệu. Năm 2014, Việt Nam vẫn phải NK 2 triệu m3 gỗ xẻ và 1,4 triệu m3 gỗ tròn từ 115 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng giá trị NK là 1,72 tỷ USD, trong đó hơn 80% được sử dụng gia công chế biến tiêu dùng trong nước và XK.
Bởi vậy, trong thời gian tới, cần tập trung nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng thâm canh các loài cây cho gỗ lớn chủ lực chưa được nghiên cứu đầy đủ cho các vùng trồng rừng tập trung, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng gỗ, được thị trường trong nước và quốc tế chấp nhận để thay thế một số loại gỗ NK chất lượng cao. Bên cạnh đó, cần tiếp tục tập trung nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng tạo nguyên liệu gỗ xẻ có chất lượng cao bằng các loài cây mọc nhanh...