Chiều 19/1, Bộ NN-PTNT tổ chức Hội thảo phát triển nuôi trồng rong tảo biển.
Ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản cho biết, hiện nay trên thế giới có khoảng 200 loài rong biển có giá trị thương mại, trong đó 27 loài được nuôi trồng chính. Tổng sản lượng rong biển hơn 36 triệu tấn (35 triệu tấn rong trồng), giá trị ước đạt hơn 8,3 tỷ USD.
Ở Việt Nam, hiện có hơn 887 loài rong tự nhiên, thuộc 3 nhóm chính (rong sụn, rong câu, rong nho). Diện tích có tiềm năng cho trồng rong biển ở nước ta khoảng 900.000ha. Năm 2023, diện tích trồng rong biển khoảng 16.500ha, sản lượng 150.000 tấn.
Theo ông Luân, ngành hàng rong biển của nước ta hiện tại đang có nhiều cơ hội để phát triển như thị trường toàn cầu tăng trường trên 10%/năm; khả năng hấp thụ CO2 nhanh gấp 5 lần thực vật cạn là cơ hội để có thể bán các tín chỉ các bon; xu thế sử dụng thực phẩm, năng lượng xanh; hoạt chất của rong tảo có thể sử dụng vào nhiều lĩnh vực như dược phẩm, mỹ phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón sinh học…
Tuy nhiên, cũng đối diện với không ít thách thức như chất lượng giống còn hạn chế; cạnh tranh diện tích với các ngành kinh tế khác; thiếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn; ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu… Trên cơ sở đó, chúng ta đặt ra mục tiêu đến năm 2025, sản lượng rong biển đạt 180.000 tấn; đến năm 2030 đạt 500.000 tấn.
Để đạt được mục tiêu này, trong thời gian tới, ngành rong biển Việt Nam sẽ tập trung phát triển nuôi trồng gần bờ các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, với đối tượng chính là rong nho, rong câu chỉ vàng, rong sụn. Bên cạnh đó, phát triển nuôi trồng xa bờ tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Đối tượng trồng chính là rong sụn và giống nhập.
Các đại biểu đại diện cho doanh nghiệp, viện nghiên cứu… tham dự hội thảo cho rằng, để ngành hàng rong biển phát triển cần quy hoạch lại vùng nuôi theo hướng tập trung, chỉ rõ nơi nào có thể nuôi trồng, không thể nuôi trồng để tránh tình trạng phát triển ồ ạt. Bởi lẽ, nếu để tình trạng hoạt động nuôi trồng tự phát, rải rác sẽ rất khó kiểm soát về mặt chất lượng, dịch bệnh, bảo vệ thương hiệu… Đặc biệt, gây khó khăn cho việc truy xuất nguồn gốc khi chúng ta muốn đưa sản phẩm vào thị trường các nước.
Bên cạnh đó, xây dựng một đề tài khoa học thật sự bài bản về cải tạo giống rong biển. Xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam cho ngành hàng rong biển. Ngoài ra, khuyến khích, hỗ trợ người dân phát triển nuôi trồng rong biển theo hướng đa canh (trồng rong biển kết hợp nuôi các loài khác như bào ngư, hải sâm, vẹm xanh...) để gia tăng lợi nhuận, phát triển bền vững.
Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, ngành nông nghiệp đang tập trung giải quyết các vấn đề lớn như biến đổi khí hậu, biến động thị trường, biến chuyển xu thế tiêu dùng. Do đó, ngành hàng rong biển muốn phát triển phải giải quyết cùng lúc được những vấn đề này.
Bộ trưởng lưu ý các đơn vị, doanh nghiệp phát triển nuôi trồng, chế biến rong biển ngoài việc tập trung nâng cao giá trị sản phẩm cần quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng hệ sinh thái ngành hàng; tạo nhiều việc làm cho lực lượng ngư dân chuyên khai thác, giúp họ chuyển đổi ngành nghề phát triển nuôi trồng bền vững.
Song song đó, doanh nghiệp phải thay đổi tư duy, nhận thức rõ mình không chỉ bán sản phẩm rong biển thông thường, thu lợi nhuận mà đang bán giá trị dinh dưỡng cho người tiêu dùng. Sản phẩm do mình tạo ra có tác động lớn tới sức khỏe giống nòi. Từ đó, không ngừng hoàn thiện quy trình chất lượng từ con giống, sản xuất, chế biến, bảo quản…
Bộ trưởng yêu cầu Cục Thủy sản, hướng dẫn, đồng hành cùng các doanh nghiệp nghiên cứu thành lập Hiệp hội ngành hàng rong biển; tạo môi trường thuận lợi để cùng nhau kiến tạo không gian giá trị mới cho ngành hàng rong biển. Đồng thời, nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện kế hoạch, quy hoạch, tiêu chuẩn để các địa phương có căn cứ đánh giá đúng giá trị của ngành hàng rong biển, từ đó có những chủ trương, chính sách phát triển phù hợp.