| Hotline: 0983.970.780

GÓP Ý ĐỔI MỚI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP

Nhiều kết quả nghiên cứu đăng tạp chí khoa học chỉ để 'trả bài'

Thứ Hai 02/08/2021 , 09:00 (GMT+7)

'Trả bài' ở đây là để kịp tiến độ nghiệm thu đề tài, hoàn thành mục tiêu thi đua, tích điểm làm hồ sơ phong học hàm...

Với hơn 30 năm (1985 - 2021) làm công tác biên tập của tờ Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tôi hoàn toàn đồng quan điểm với TS Nguyễn Tiến Dũng, nguyên Trưởng Bộ môn Virus, Viện Thú y khi cho rằng “một trong những thành quả quan trọng nhất của công tác nghiên cứu là các bài báo khoa học” (Báo Nông nghiệp Việt Nam, ra ngày 16/7/2021).

Nhân chủ đề “Đổi mới nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp” do Báo Nông nghiệp Việt Nam phát động, tôi xin đưa ra một vài suy nghĩ mang tính cá nhân về những kết quả nghiên cứu gửi đăng trên Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông những năm qua.

Một số Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát hành năm 2002. Ảnh: TL.

Một số Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát hành năm 2002. Ảnh: TL.

 Ngày càng ít công trình nghiên cứu cơ bản, chuyên sâu được công bố

Còn nhớ, những năm 80, 90 của thế kỷ 20, lúc này trong điều kiện đất nước vô cùng khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn song đã có rất nhiều công trình nghiên cứu cơ bản, chuyên sâu được công bố. Có thể ví dụ như những kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam về di truyền học; sinh lý, sinh hóa thực vật trên các đối tượng cây lúa, rau, đậu đỗ…

Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm với tập đoàn lúa chịu úng, ngập (các giống U…), giống lúa có hàm lượng protein cao (các giống P…); Viện Di truyền Nông nghiệp với các giống lúa năng suất cao và có khả năng chống chịu tốt (giống DT…), các giống lúa chịu mặn ( giống CM…) và những giống cây trồng có khả năng thích ứng trong điều kiện khó khăn và trái vụ (bắp cải chịu nhiệt…).

Viện Lúa ĐBSCL từ những vật liệu ban đầu, những dòng lúa nhập nội của Viện Lúa quốc tế (IRRI) đã chọn tạo ra hàng loạt các giống OMCS, những giống lúa OM có hàm lượng vi lượng cao ( Fe, Zn..)… để phục vụ cho sản xuất của vùng và xuất khẩu.

Viện Bảo vệ thực vật với những kết quả nghiên cứu về diễn biến của các biotype rầy qua các năm, đặc tính sinh trưởng, phát triển và gây hại của các loài sâu, bệnh, từ đó đã xây dựng các quy trình phòng trừ hiệu quả.

Cùng với đó đã chọn tạo được những giống cây trồng có khả năng kháng sâu bệnh (ví dụ như giống lúa kháng rầy CR203 đã được phát triển trong sản xuất thời gian dài), các giống lúa chống chịu khô hạn cho vùng Tây Nguyên (các giống CH)…

Lúa lai từng có rất nhiều nghiên cứu chuyên sâu, có chất lượng được công bố. Ảnh: TL.

Lúa lai từng có rất nhiều nghiên cứu chuyên sâu, có chất lượng được công bố. Ảnh: TL.

Đại học Nông nghiệp I (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam) với những kết quả nghiên cứu chuyên sâu trong chọn tạo những giống lúa lai 2, 3 dòng, và sản xuất hạt lai của các giống lúa lai…

Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp miền Nam với những kết quả nghiên cứu chuyển giao vào sản xuất những tổ hợp lợn lai siêu nạc… Viện Chăn nuôi với những giống gia cầm siêu trứng, siêu thịt... Viện Thú y từ những kết quả nghiên cứu đã xây dựng được quy trình phòng trừ dịch bệnh, công thức chế tạo và sản xuất thuốc thú y phục vụ sản xuất rất hiệu quả và hiện vẫn đang được ứng dụng và phát triển mạnh mẽ…

Viện Thổ nhưỡng Nông hóa từng một thời có những kết quả nghiên cứu, đánh giá về chất lượng đất ở các vùng miền.

Trước đây, mỗi khi có dịp đến công tác tại bất kỳ một hợp tác xã nông nghiệp nào, khi vào trụ sở thì hình ảnh đầu tiên dễ nhận thấy nhất đó là tờ Bản đồ Đất giới thiệu về đặc điểm của các loại đất được treo ở nơi dễ nhìn thấy nhất.

Nay, có lẽ thay vào vị trí đó vẫn là bản đồ, nhưng là Bản đồ Quy hoạch đất, thậm chí có cả bản đồ phân lô…

Nhiều kết quả nghiên cứu đăng tạp chí khoa học chỉ để “trả bài”

Những công trình nghiên cứu cơ bản và chuyên sâu mặc dù đã được công bố cách đây trên dưới 30 năm, nhưng đến nay vẫn còn giá trị tham khảo tốt. Đặc biệt những nghiên cứu mang tính dự báo rất có ý nghĩa trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Hiệu quả tích cực của các công trình nghiên cứu cơ bản và chuyên sâu là rất rõ, song rất tiếc những công trình như vậy gửi đăng công bố trên các tạp chí khoa học ngày càng ít. Thay vào đó, nhiều kết quả nghiên cứu gửi đăng trên các tạp chí khoa học chỉ để “trả bài”.

Ngày càng có ít công trình nghiên cứu có chất lượng, chuyên sâu được công bố. Ảnh: TL.

Ngày càng có ít công trình nghiên cứu có chất lượng, chuyên sâu được công bố. Ảnh: TL.

"Trả bài" ở đây có thể là để kịp tiến độ nghiệm thu đề tài nhằm phục vụ việc… “giải ngân”, hoặc hoàn

Thực tế, đã có rất nhiều bài báo khoa học gửi đăng nhưng thường kết quả không có gì mới, thậm chí có những nghiên cứu mà trước đó đã được xây dựng thành quy trình, quy chuẩn…

Có những kết quả nghiên cứu mới chỉ ở diện hẹp với quy mô “chậu, vại” trong nhà lưới, song cũng đã gửi công bố.

thành mục tiêu thi đua để bình bầu cuối năm. Nhiều cơ sở nghiên cứu đào tạo (viện, trường) thường giao chỉ tiêu thi đua hàng năm là phải có bài báo đăng trên các tạp chí khoa học.

"Trả bài" ở đây còn có thể nhằm tích điểm làm hồ sơ phong học hàm giáo sư, phó giáo sư. Và thậm chí tới đây, nếu rào cản về quy định bài báo đăng trên tạp chí quốc tế ( tiêu chuẩn ISI, Scopus) đối với các nghiên cứu sinh được tháo gỡ thì có thể chúng ta lại có những công trình nghiên cứu theo kiểu để phục vụ “trả bài” cho các hội đồng chấm luận án tiến sỹ.

Những kết quả nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật canh tác (chế độ bón phân, tưới, mật độ gieo trồng…); đánh giá sinh trưởng, phát triển của một đối tượng cây con nào đó mặc dù mới qua thời gian nghiên cứu ngắn (chủ yếu là kết quả của một vụ) cũng đã đưa ra kết luận và công bố thành công trình.

Nhiều công trình gửi đăng với tiêu đề như: Đánh giá thực trạng... và giải pháp khắc phục; Điều tra khảo sát…; Đánh giá tình hình… tính học thuật không cao, thậm chí còn sử dụng nhiều số liệu quá cũ cách thời điểm công bố trước đó 10 đến 20 năm, thế thì đâu còn là hiện trạng nữa?

Cần có những cơ chế linh hoạt nhằm cho phép nối dài các đề tài nghiên cứu tới kết quả cuối cùng. Ảnh: TL.

Cần có những cơ chế linh hoạt nhằm cho phép nối dài các đề tài nghiên cứu tới kết quả cuối cùng. Ảnh: TL.

Có lẽ để thay cho những đề tài nghiên cứu kiểu như thế, cần những đề tài nghiên cứu về hiệu quả của các kết quả nghiên cứu, các sản phẩm khoa học công nghệ khi đã được chuyển giao vào thực tiễn sản xuất và đời sống, như vậy sẽ thiết thực hơn.

Bên cạnh đó, cũng có những nghiên cứu khi triển khai rất bài bản, khoa học và kết quả đạt được tuy mới chỉ là bước đầu nhưng rất đáng khích lệ. Song những kết quả này cũng chỉ dừng lại ở kết quả ban đầu, vì muốn phát triển tiếp thì lại gặp phải vấn đề muôn thuở, đó là “tiền đâu”? Và những kết quả này chắc chắn lại được xếp vào “ngăn kéo”.

Xin lấy ví dụ, có những kết quả nghiên cứu đã tuyển chọn, phân lập, thậm chí cho giải trình tự gen và định danh được các chủng, loài vi sinh vật có ích trong phòng trừ dịch bệnh, kích thích sinh trưởng cây trồng, phân giải các chất dinh dưỡng khó tan trong đất và góp phần cải tạo đất, xử lý ô nhiễm môi trường…

Những kết quả này nếu được tiếp tục đầu tư nghiên cứu phát triển thành những chế phẩm, sản phẩm khoa học sẽ mang lại hiệu quả rất thiết thực và an toàn cho sản xuất và đời sống. Có thể nói những hoạt động nghiên cứu khoa học như vậy vẫn còn bằng chứng là ở đâu đó vẫn có những bài báo gửi đăng. 

Còn ít công trình nghiên cứu phục vụ nhu cầu cấp thiết được công bố

Xin đơn cử ví dụ, lâu nay chúng ta hay nói đến cụm từ “Nâng cao chuỗi giá trị sản xuất nông sản”. Song, một trong những yếu tố chính trong chuỗi giá trị đó là người sản xuất lại ít được quan tâm. Đối với người sản xuất, cần có những nghiên cứu về cơ chế, chính sách sao cho có thể nâng cao được thu nhập cho họ, vì trong cả chuỗi giá trị đó họ luôn là người chịu thiệt thòi và có thu nhập thấp nhất.

Để nâng cao hiệu quả kinh tế của chuỗi giá trị nông sản, yếu tố hết sức quan trọng là nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nông sản thông qua nghiên cứu, áp dụng công nghệ trong bảo quản và chế biến.

Bên cạnh đó là nhiều triệu tấn phế phụ phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản thải ra hàng năm nếu được qua chế biến sẽ góp phần nâng cao giá trị lên rất nhiều thay vì bị vứt bỏ, vừa gây lãng phí và ảnh hưởng đến môi trường như hiện nay. Ý nghĩa thiết thực như vậy, song rất tiếc vẫn còn ít những công trình nghiên cứu công phu, bài bản, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống được công bố.

PHẠM HÀ THÁI

(Tổng biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm