| Hotline: 0983.970.780

Trồng trọt ĐBSCL chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu

Thứ Sáu 16/04/2021 , 14:36 (GMT+7)

Trước tác động của biến đổi khí hậu, 2 cây trồng chủ lực của ĐBSCL là lúa và cây ăn trái vẫn thích ứng, liên tục phát triển nhờ các giải pháp phù hợp.

Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 120 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu, Bộ NN-PTNT đã chủ động bắt tay vào thực hiện nhiều công việc quan trọng liên quan tới trồng trọt thích ứng với biến đổi khí hậu ở khu vực này.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt. Ảnh: TL.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt. Ảnh: TL.

Thưa ông, Bộ NN-PTNT đã có những giải pháp cụ thể như thế nào đối với 2 cây trồng chủ lực của ĐBSCL là lúa và cây ăn trái?

Trước hết, Bộ đã điều tiết diện tích sản xuất lúa theo từng vụ, với xu hướng chủ đạo là giảm sản xuất lúa ở những vùng không thuận lợi cho sản xuất lúa như dễ bị ngập úng hay xâm nhập mặn. Theo chủ trương đó, từ năm 2017 đến nay, chúng ta đã giảm được gần 200 ngàn ha gieo trồng lúa ở ĐBSCL.

Tuy giảm nhiều diện tích gieo trồng, nhưng sản lượng lúa ở ĐBSCL vẫn ổn định quanh mức 24 triệu tấn mỗi năm. Sự ổn định về sản lượng là nhờ Bộ NN-PTNT đã chuẩn bị những bộ giống lúa thích ứng với biến đổi khí hậu ở ĐBSCL mà vẫn đảm bảo năng suất, chất lượng cao. Nhờ vậy, nếu như năm 2017, năng suất bình quân chung trên toàn vùng là 5,7 tấn/ha/vụ, thì đến năm 2020 đã ở mức 6 tấn/ha/vụ.

Bên cạnh đó, việc chuyển đổi cơ cấu giống trong sản xuất lúa ở ĐBSCL để thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm sinh kế cho nông dân (tăng thu nhập) cũng đã được thực hiện một cách tích cực theo hướng tăng diện tích 5 nhóm giống lúa có giá trị cao và có thị trường xuất khẩu tốt, gồm: lúa thơm, lúa đặc sản, lúa chất lượng cao, nếp và lúa Japonica.

Cơ cấu các nhóm giống lúa chất lượng tăng mạnh đã giúp nâng cao giá trị cho ngành lúa gạo ở ĐBSCL những năm qua. Ảnh: LVH.

Cơ cấu các nhóm giống lúa chất lượng tăng mạnh đã giúp nâng cao giá trị cho ngành lúa gạo ở ĐBSCL những năm qua. Ảnh: LVH.

Đồng thời giảm diện tích các giống lúa phẩm cấp thấp. Với sự chuyển đổi cơ cấu giống lúa đầy tích cực trong 3 năm qua, diện tích 5 nhóm giống lúa được khuyến khích sản xuất hiện đã chiếm 85% tổng diện tích gieo trồng lúa ở ĐBSCL, tăng khá nhiều so với 65% của năm 2017.

Một giải pháp rất quan trọng đã được thực hiện có hiệu quả trong những năm qua là tổ chức thời vụ sản xuất lúa ở ĐBSCL né tránh những tác động bất lợi do biến đổi khí hậu. Nếu như vụ đông xuân và mùa 2015 - 2016, đã có tới 150 ngàn ha lúa bị thiệt hại vì hạn mặn, thì đến vụ đông xuân và mùa 2020 - 2021 hầu như không có thiệt hại trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Nhờ đó, khoảng 5.000 tỷ đồng đã không bị mất đi.

Việc giảm lượng giống gieo sạ đang được thực hiện trong những năm qua ở ĐBSCL, ngoài những yếu tố kinh tế, cũng nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. Đến nay, mỗi năm đã có khoảng 10% diện tích gieo trồng lúa ở ĐBSCL sử dụng lượng giống dưới 100 kg/ha, qua đó giúp nông dân tiết kiệm được 500 tỷ đồng mỗi năm.

Cũng nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu và nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông dân, trong 3 năm qua, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả ở ĐBSCL đang được đẩy mạnh. Từ năm 2017 đến nay, tổng hợp báo cáo của Sở NN-PTNT các tỉnh, thành phố ĐBSCL, cho thấy, có 270 ngàn ha lúa đã được luân canh với cây màu, 70 ngàn ha được chuyển sang trồng cây ăn trái, 25 ngàn ha nuôi thủy sản nước ngọt.

So với chuyên canh lúa, việc luân canh cây màu trên đất lúa làm tăng thêm lợi nhuận cho nông dân từ 120 - 150 triệu đồng/ha, cây ăn trái làm tăng thêm lợi nhuận từ 350 - 400 triệu đồng/ha, thủy sản từ 20 - 25 triệu đồng/ha.

Với cây ăn trái, trong 370 ngàn ha diện tích ở ĐBSCL, có 80 ngàn ha nằm trong vùng dễ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi khô hạn, xâm nhập mặn. Nhưng trong những năm qua, nhờ những giải pháp kịp thời, 80 ngàn ha này đã được bảo vệ tốt trước các tác động của biến đổi khí hậu.

Các vùng cây ăn quả của ĐBSCL đã được bảo vệ tốt trước những ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu. Ảnh: LVH.

Các vùng cây ăn quả của ĐBSCL đã được bảo vệ tốt trước những ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu. Ảnh: LVH.

Những giải pháp chính nào đã được Bộ NN-PTNT đẩy mạnh thực hiện trong 3 năm qua và đã tạo ra sự thay đổi tích cực trong lĩnh vực trồng trọt ở ĐBSCL?

Có 3 nhóm giải pháp chính đã được Bộ NN-PTNT đẩy mạnh thực hiện trong 3 năm qua liên quan tới lĩnh vực trồng trọt ở ĐBSCL. Trước hết là tăng cường công tác theo dõi, dự tính, dự báo những diến biến bất lợi của thời tiết, khí hậu, thủy văn… Trên cơ sở đó, xây dựng các kịch bản ứng phó phù hợp và linh hoạt cho từng mùa vụ.

Bộ đã đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình xây dựng cơ bản, đáp ứng tốt các nhu cầu phát triển không chỉ cho trồng trọt mà cả chăn nuôi, thủy sản ở ĐBSCL.

Bên cạnh đó là các giải pháp phi công trình như cơ cấu lại mùa vụ, cơ cấu lại giống, chuyển đổi cơ cấu câu trồng trên đất lúa… Một giải pháp rất quan trọng cần được nhắc tới là xây dựng bản đồ rủi ro khi hậu trong sản xuất lúa ở ĐBSCL.

Trong những năm qua, bản đồ này đã thể hiện được hiệu quả tích cực trong sản xuất lúa ở nhiều tỉnh như Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng, như giúp cho địa phương chủ động bố trí mùa vụ trong năm, xác định những vùng có nguy cơ hạn mặn hàng năm …

Đến nay, Bộ NN-PTNT đã hoàn thành việc chuyển giao bản đồ cho tất cả các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL.

Xin cảm ơn ông!

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm