| Hotline: 0983.970.780

Khoa học Lâm nghiệp phục vụ tái cơ cấu

Thứ Ba 29/12/2015 , 07:15 (GMT+7)

Đến nay, có hơn 30 giống keo lai và bạch đàn lai của Việt Nam đã được các công ty trồng rừng ở Thái Lan, Lào, Indonesia và Myanmar mua giấy phép sử dụng để khảo nghiệm và trồng thử.

15 năm và 199 giống mới được công nhận

Sáng qua (28/6), tại Hà Nội, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã tổ chức Hội thảo Khoa học công nghệ lâm nghiệp góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu ngành.

Theo GS, TS Võ Đại Hải, GĐ Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam, tốc độ tăng trưởng của ngành lâm nghiệp liên tục tăng trong những những năm qua, từ 5,03% giai đoạn 2010 – 2012 lên 7,8% năm 2015. Kim ngạch XK gỗ và đồ gỗ có tốc độ tăng trưởng trung bình 15%/năm, năm 2014 đạt 6,3 tỷ USD. Công tác trồng rừng tiếp tục được triển khai. Trong giai đoạn 2002 - 2014, diện tích trồng rừng trồng đã tăng từ 1,92 triệu ha lên gần 3,7 triệu ha (trung bình tăng 148.000 ha/năm). Đến năm 2015 đã có gần 170.000 ha rừng được cấp chứng chỉ...

Tuy nhiên, GS.TS Võ Đại Hải cũng chỉ ra nhiều tồn tại của ngành lâm nghiệp. Thứ nhất, chỉ có khoảng 25 – 30% giống mới được áp dụng vào sản xuất. Rừng trồng chủ yếu là rừng gỗ nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Rừng tự nhiên chủ yếu là rừng nghèo và nghèo kiệt (chiếm 70% diện tích). Hiện tại phần lớn chỉ áp dụng biện pháp khoanh nuôi bảo vệ không tác động, bởi vậy, khả năng phục hồi rất chậm, nhiều chủ rừng muốn trả lại các diện tích rừng tự nhiên nghèo không được khai thác.

Một trong những thành tựu đáng ghi nhận của ngành lâm nghiệp trong những năm qua là công tác nghiên cứu giống. Theo TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp, chỉ trong 15 năm trở lại đây, đã có 199 giống cây lâm nghiệp được công nhận là giống quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật. Nghiên cứu nhân giống bằng giâm hom và nuôi cấy mô cũng đã có những bước tiến vượt bậc.

Đến nay, hầu như các giống keo và bạch đàn đã được sản xuất đại trà bằng công nghệ mô-hom, qua đó đã góp phần nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng (có nơi năng suất đạt trên 30 m3/ha/năm). So với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia (những nước tiến hành nghiên cứu cải thiện giống cùng thời) thì Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, đặc biệt trong công tác chọn tạo giống mới và nhân giống bằng nuôi cấy mô.

Nâng cao chất lượng gỗ Việt

Tuy nhiên, TS Nguyễn Đức Kiên cũng cho rằng: Mặc dù đã tạo ra được nhiều giống mới được công nhận nhưng công tác chuyển giao giống vào sản xuất còn nhiều bất cập. Cụ thể, trong số 199 giống được công nhận, chỉ có 40 giống đang được sử dụng rộng rãi trong sản xuất bao gồm các giống keo lai tự nhiên, keo tai tượng, một số giống bạch đàn lai UP, bạch đàn URO và mắc ca. Phần lớn các giống còn lại chưa được chuyển giao và phát huy hiệu quả trong sản xuất.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ gen trong nghiên cứu giống cây lâm nghiệp cũng còn hạn chế, chưa tạo ra được giống biến đổi gen, chưa có nhiều nghiên cứu cơ sở, cơ bản liên quan đến biến nạp gen ở cây lâm nghiệp cũng như ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn lọc sớm hoặc chọn giống theo các mục tiêu sử dụng gỗ khác nhau.

TS Trần Lâm Đồng, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Lâm sinh cho biết: Năm 2014, Việt Nam XK 6,97 tấn dăm khô, tương đương 13,9 triệu m3 gỗ nguyên liệu với tổng giá trị XK đạt xấp xỉ 1 tỷ USD. Việt Nam cũng là quốc gia XK đồ gỗ lớn với tổng giá trị XK năm 2014 là 6,32 tỷ USD. Nhưng lượng gỗ xẻ từ rừng trồng cây mọc nhanh và thanh lý rừng cao su mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% lượng gỗ nguyên liệu. Năm 2014, Việt Nam vẫn phải NK 2 triệu m3 gỗ xẻ và 1,4 triệu m3 gỗ tròn từ 115 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng giá trị NK là 1,72 tỷ USD, trong đó hơn 80% được sử dụng gia công chế biến tiêu dùng trong nước và XK.

Bởi vậy, trong thời gian tới, cần tập trung nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng thâm canh các loài cây cho gỗ lớn chủ lực chưa được nghiên cứu đầy đủ cho các vùng trồng rừng tập trung, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng gỗ, được thị trường trong nước và quốc tế chấp nhận để thay thế một số loại gỗ NK chất lượng cao. Bên cạnh đó, cần tiếp tục tập trung nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng tạo nguyên liệu gỗ xẻ có chất lượng cao bằng các loài cây mọc nhanh...

Xem thêm
Sai phạm ở loạt dự án liên quan đại gia Nguyễn Duy Hùng ở Phú Thọ

PHÚ THỌ Trong hàng loạt dự án liên quan ông Nguyễn Duy Hùng ở Phú Thọ, có nhiều dự án Báo Nông nghiệp Việt Nam và cơ quan chức năng chỉ rõ sai phạm.

Kích điện giun đất có thể bị xử phạt tới 300 triệu đồng

Theo Luật sư Dương Lê Ước An (Đoàn Luật sư TP Hà Nội), kích điện giun đất có thể bị xử phạt tối đa 300 triệu đồng hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đường lớn làm chưa xong, tỉnh lộ đã nát bét

Xe trọng tải lớn chở vật liệu thi công tuyến đường thành phố Bắc Kạn đi hồ Ba Bể chạy rầm rập ngày đêm 'cày' nát đường tỉnh 257B.

Thái Nguyên: Câu chuyện bi thảm của một vận động viên

Đó là câu chuyện về số phận bi thảm của anh Nguyễn Hồng Quang xóm Phả Lý, xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên khi không may bị phóng điện tại nương chè.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm