Lừng lững một biểu tượng bất diệt
Có lẽ, ai cũng từng nghe đến một loài cây đặc trưng của cao nguyên, ít nhất là qua lời bài hát “Bóng cây kơ nia”. Nhưng tượng hình, dáng cây, thế đứng như thế nào, chắc chẳng mấy người mường tượng ra. Cả người trẻ Jrai, Ê Đê, Xê Đăng, Ba Na... của vùng đất này cũng ít còn được thấy nữa.
Ông Amí Toan gần 70 tuổi, người làng Ah, xã Ia mơ Nông (huyện Chư Păh, Gia Lai) ngồi ghếch chân lên cầu thang nhà sàn, mắt chỉ về phía gần nhà mồ của làng bảo làng chỉ còn một cây kơ nia đó, nó là cây kơ nia con, mọc lên từ gốc cây kơ nia mẹ đã chết mấy chục năm trước. Nói là cây kơ nia con, nhưng nó cùng tuổi với Amí Toan, cũng đã gần 70 tuổi. Amí Toan bảo, sau giải phóng năm 75, vùng này nhiều kơ nia lắm, lớn chừng nào cũng có, có cây 2 - 3 người ôm không hết. Nhưng bây giờ thì hết rồi, chỉ còn vài cây quanh vùng mà thôi.
Có lẽ vì sức sống bền bỉ, mãnh liệt nên không có cây nào như cây kơ nia, bốn mùa không thay lá. Cây kơ nia chẳng biết vì sao lại là loài cây cô độc, thường mọc một mình giữa cánh rừng, giữa triền đồi cao, hay trong những lũng sâu. Họa hoằn lắm mới thấy kơ nia mọc đôi, mọc ba, nhưng rất ít.
Amí Toan bảo, kơ nia trên những triền thảo nguyên nắng gió không mọc nhiều bao giờ, nó lừng lững vươn cao lên hẳn so với những cây rừng khác. Nắng lửa sáu tháng mùa khô đằng đẵng, cây vẫn một màu xanh thủy chung. Càng nắng, cây càng xanh tốt hơn. Giông bão bao phen, bom đạn chiến tranh bao phen quật đổ bao loài cây, riêng kơ nia vẫn hiên ngang, sừng sững. Có phải vì thế mà cây được ví như người Tây Nguyên, ngay thẳng, kiên trung, bất khuất.
Theo Amí Toan, trước đây khi bà con phát rừng làm rẫy thường để lại những cây kơ nia để lấy bóng mát. Các cây khác thường làm ảnh hưởng đến cây trồng nhưng riêng kơ nia vô hại. Những bà mẹ địu con trên lưng trong những tháng ngày lao động trên nương, khi mỏi, thường đặt con dưới bóng mát kơ nia. Hoặc giữa buổi trưa nắng, chỉ cần ngơi nghỉ chốc lát dưới bóng loài cây này cũng tan đi mỏi mệt.
Xưa kia, người đi làm rẫy nếu bị no hơi, đầy bụng, hái lá kơ nia về nấu nước uống vài ngụm là khỏi; nếu bị bệnh sốt rét rừng, bệnh mà dân làng tin đó là do ma ám thì uống nước nấu cây kơ nia sẽ khỏi bệnh. Bao nhiêu em bé đã lớn lên dưới bóng mát kơ nia. Hình bóng kơ nia gắn với hình ảnh thương yêu của bao nhiêu bà mẹ Tây Nguyên vô danh. Có lẽ thế, mà gần như vô thức, kơ nia trở nên thân thuộc, sẵn trong tiềm thức sâu xa của mỗi đứa con sinh ra và lớn lên giữa Tây Nguyên đại ngàn.
Già Rơ Châm Chuck (làng Phung, Xã Ia Mơ Nông) mơ màng nhớ: “Ngày xưa cây kơ nia có mặt ở khắp nơi, chân núi, ven đồi, đầu buôn, bờ suối… Nhưng người ta đã ngả cây, đốn gỗ, phá rừng làm nương rẫy. Những cây kơ nia cũng chịu chung số phận của những cánh rừng.
Có một dạo, người ta còn muốn chặt hạ cả mấy cây kơ nia đầu buôn để lấy đất xây nhà, dựng quán. Nhưng già làng đã không cho phép ai được làm điều đó. Bởi kơ nia là người thân của buôn làng, là hồn cốt của buôn làng, phải giữ lấy!”. Bây giờ, kơ nia thân thương của làng Phung vẫn đó, giang rộng tay nơi bến nước, xòa bóng mát bên đường buôn cho người làng nghỉ chân mỗi lúc mệt nhoài.
Thao thiết gió triền đồi
Kơ nia phát triển hết cỡ có thể cao đến 30 - 40m, đường kính vòng thân trên dưới nửa mét. Tán lá luôn vun hình bầu dục, vươn thẳng lên trời, xanh tốt quanh năm vì không có mùa thay lá. Trước đây, ở Tây Nguyên đâu đâu cũng thấy kơ nia. Những bóng kơ nia lừng lững ven dọc đường đi, trầm tư trên triền đồi nương, rủ bóng quanh các buôn làng... Nhưng, cuộc sống khó khăn khiến nhiều người đốn hạ xuống hầm than bán buôn kiếm sống. Kơ nia cứ thế dần vắng bóng và lùi ra xa những khu dân cư, nhất là quanh vùng đô thị, chỉ còn lại ít ỏi ở những vùng xa.
Cuối tháng 4, cũng là cuối mùa khô Tây nguyên, gió vẫn thao thiên triền đồi, nắng vẫn hừng hực vàng, những rừng cao su, cà phê, tiêu vẫn đang xanh ngăn ngắt một màu, nhưng dường như đều đặn và bình lặng quá đỗi trong những cánh rừng cây trồng công nghiệp ấy. Chẳng còn mấy cây kơ nia ở vùng đất này nữa.
Già Rơ Châm Chuck vẫn nhớ ngày xưa vùng này nhiều kơ nia lắm, ngó hướng mặt trời mọc có vài cây, hướng mặt trời lặn có vài cây, hướng núi Păh có vài cây, hướng nào cũng có. Kơ nia thấp thoáng xa xa, cao hẳn lên trên tán rừng, đó là điểm đánh dấu cho những buôn làng. Nhìn về hướng đó, già Chuck biết đó là làng Kep, hướng kia là làng Ah, hướng kia nữa là làng B’loi, hay làng Mun. Hay xa xa hơn nưa nơi dòng Sê San mà nay thành lòng hồ thủy điện Ialy, thì có làng Yã, hay các làng khác nữa. Chỉ cần nhìn thấy cây, là biết ở đó có làng.
Không chỉ già Chuck, mà những người làng khác, ở những vùng đất khác, trên cao nguyên Kon Tum, hay cao nguyên Lâm Viên, hay dưới vùng thung lũng Ayun, dưới vùng An Khê, của những tộc người Ê Đê, Xê Đăng, Ba Na... đều thao thiết với kơ nia. Không chỉ là cây bóng mát, kơ nia đã soi bóng xuống hai cuộc chiến tranh tàn khốc và anh dũng của vùng cao nguyên này.
“Bây giờ kơ nia còn ít quá!”, già Chuck quày quả bước vào nhà. Câu chuyện đột nhiên rơi vào im lặng. Già Chuck trao đổi gì đó với lũ trẻ bằng ngôn ngữ Jrai, rồi lũ trẻ cũng sôi nổi hẳn. Chúng mang ra một rổ hạt. Chỉ vào đó và nói: “Mình đi chăn bò thường nhặt quả kơ nia ăn, ngon lắm. Hạt của nó ăn bùi gần giống đậu phộng. Con nai, con mang cũng rất thích ăn quả này!”.
Hóa ra, kơ nia không còn mấy nữa, nhưng những cây kơ nia con vẫn còn lại đâu đó trong những khoảnh rừng da báo, lẫn với những ruộng rẫy. Và vào mùa, người làng lại đến gốc cây để nhặt quả. Thú vị là cây kơ nia có… cây đực và cây cái. Cây cái thì mỗi năm hoặc hai ba năm sẽ cho quả kiểu như hạt dẻ, đập ra ăn có vị béo, thơm quyện nơi chót lưỡi.
Quả kơ nia khi mới chín rụng xuống, phần thịt bên ngoài có vị ngọt. Trái xanh có vị chua, người dân thường lấy về kho với cá suối rất ngon. Sau khi trái rụng một thời gian, lớp vỏ thịt mỏng bị phân hủy còn hạt được bọc bởi lớp vỏ gỗ nên để cả năm không hỏng.
Mấy năm trở lại đây, hạt kơ nia bắt đầu được nhiều người biết đến, trở thành món ăn vặt thay cho hạt bí, hạt dưa, ăn một lần là nhớ mãi. Do vậy, du khách mỗi lần đến Tây Nguyên đều tìm mua một ít hạt kơ nia về làm quà. Nhờ đó, mùa kơ nia rụng quả, người dân có thêm một khoản thu nhập đáng kể từ hạt đặc sản của núi rừng Tây Nguyên.
Chiều hoàng hôn phủ xuống đỏ ối phía triền tây, tôi dừng lại, ngắm nhìn để cảm nhận sâu hơn những cảm xúc mà mình có được về một loài cây biểu tượng này. Tiếng lá rì rầm như một lời thủ thỉ trò chuyện từ ngàn xưa vọng lại, tiếng chim hót ríu ra ríu rít trên cao. Không biết ở những vùng đất khác trên cao nguyên này có còn nơi nào giữ lại được nhiều cây kơ nia không.
Bây giờ, cây kơ nia đã có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, bởi ngay tại Tây Nguyên loài cây này cũng đã trở thành của hiếm. Làm sao đừng để kơ nia chỉ còn trong hoài niệm? Và biết đâu chừng, về sau xa nữa, nếu không được bảo tồn ngay từ giờ này, kơ nia sẽ chỉ còn là ký ức, như cái cách mà Amí Toan hay già Chuck vẫn thẫn thờ nhắc nhớ.
Nhiều thương lái thu mua hạt kơ nia của bà con với giá 50.000 đồng/kg nhân hạt, sau đó mang về loại bỏ những hạt xấu, bị hư rồi phơi khô, rang lên, đóng bì bán với giá 140.000 đồng/kg. Khi rang lên sẽ làm mùi tinh dầu hăng nồng trong hạt mất đi, khi ăn không còn cảm thấy nhớt nhớt trong miệng như lúc nhai sống, phần nhân hạt lúc này trở nên thơm hơn, béo ngậy và giòn tan. Những ai dù chỉ thử một lần loại hạt rừng dân dã này sẽ vô cùng thích thú. Và hạt kơ nia đã trở thành đặc sản, món quà biếu đậm hương vị núi rừng của vùng đất tây nguyên bây giờ.