Ngày 17/5 tại TP.HCM đã diễn ra Lễ sơ kết Quy chế phối hợp giữa Tổng cục Lâm nghiệp và Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG); trao Chứng chỉ quản lý rừng bền vững của Việt Nam đầu tiên cho 11.423 ha rừng cao su tại 3 công ty thuộc VRG gồm Công ty cao su Bình Long, Công ty cao su Phú Riềng và Công ty cao su Dầu Tiếng.
Thực hiện Quy chế phối hợp giữa hai bên, trong năm qua, Tổng cục Lâm nghiệp đã hỗ trợ, hướng dẫn VRG thực hiện đúng trình tự, thủ tục xây dựng, phê duyệt phương án quản lý rừng bền vững theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp; hỗ trợ các đơn vị trực thuộc VRG nâng cao năng lực, nhận thức về quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng. Đồng thời, VRG cũng hỗ trợ Văn phòng Chứng chỉ rừng về vận hành hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia.
Chứng chỉ quản lý rừng bền vững của Việt Nam rất có ý nghĩa trong việc thúc đẩy cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững và phát triển thị trường nguyên liệu gỗ hợp pháp, nguyên liệu “sạch” cho ngành chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu của Việt Nam. Đây cũng là sự khẳng định tính chủ động trong việc thực thi quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng, đặc biệt khi hệ thống chứng chỉ rừng của Việt Nam đã được công nhận trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, chứng chỉ quản lý rừng bền vững của Việt Nam cũng giúp tăng thêm sự lựa chọn cho các chủ rừng, doanh nghiệp trong việc thực hiện chứng chỉ rừng bền vững.
Thứ trưởng Hà Công Tuấn đã biểu dương VRG, Tổng Cục Lâm nghiệp và các tổ chức tư vấn, giám sát, đánh giá chứng chỉ quản lý rừng bền vững. “Tôi rất vui mừng vì trong một thời ngắn 3 đơn vị của VRG đã được cấp chứng chỉ này và được các tổ chức quốc tế đồng thuận, thừa nhận”.
Theo Thứ trưởng Hà Công Tuấn, phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu có thương hiệu, có uy tín và hội nhập quốc tế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Những năm gần đây, Quốc hội, Chính phủ đã triển khai mạnh mẽ chương trình quản lý rừng bền vững. Đó là Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã ghi nhận việc chúng ta phải phát triển bằng được, quản trị quốc gia bằng được công tác quản lý rừng bền vững để đất nước phát triển. Theo đó, ngày 1/10/2018 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng quốc gia (Quyết định 1288/QĐ-TTg). Ngay sau đó, ngày 16/11/2018 Bộ trưởng Bộ NN-PTNT ban hành Thông tư quy định về quản lý rừng bền vững (Thông tư 28/2018/TT-BNNPTNT).
Trong bối cảnh nước ta còn nhiều khó khăn, nhưng với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của cả xã hội, chúng ta đã tập trung nâng cao độ che phủ rừng. Đến nay cả nước đã có trên 14,6 triệu ha rừng, trong đó có trên 4,3 triệu ha rừng trồng, đưa độ che phủ rừng lên cao hàng đầu của thế giới đạt 41,89%, được bạn bè quốc tế đánh giá rất cao. Cùng với đó, sản lượng gỗ khai thác phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu tăng rất nhanh. Ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu năm 2019 đã đạt 11,3 tỷ USD, đóng góp rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ trưởng khẳng định, mấy năm gần đây, chúng ta triển khai chương trình cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững có đánh giá một cách khoa học trên cơ sở các tiêu chí quốc tế. Hiện cả nước đã có 250.000 ha rừng được cấp chứng chỉ rừng quốc tế. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo, trong năm nay chúng ta cố gắng tăng thêm khoảng 300.000 ha nữa và đến năm 2025 phải tăng thêm 1 triệu ha được cấp chứng chỉ rừng. Đặc biệt, đến năm 2030, cơ bản diện tích rừng sản xuất và rừng trồng của nước ta phải có tối thiểu 80% được cấp chứng chỉ.
Thứ trưởng cho rằng, với VRG, việc thực hiện chứng chỉ quản lý rừng bền vững chắc chắn sẽ nhanh hơn so với cả nước, bởi vì ngành cao su có một truyền thống hào hùng, có một đội ngũ quản trị tốt, có một nền 300.000 ha cao su cơ bản đáp ứng được các tiêu chí quản lý rừng bền vững trong nước và quốc tế. “Tôi đề nghị VRG tập trung chỉ đạo các đơn vị thành viên cố gắng đến năm 2025 toàn bộ 300.000 ha cao su đều đạt chứng chỉ quản lý rừng bền vững. Đây chính là di sản mà VRG để lại về thương hiệu, về uy tín và hiệu quả chuỗi cho cả tập đoàn”.
Đối với Tổng Cục Lâm nghiệp, Thứ trưởng đề nghị phải tập trung cao độ, coi đây là việc phải thực hiện rất nhanh để bù vào thời gian giãn cách do Covid-19. Tổng Cục phối hợp các đơn vị liên quan rà soát cơ chế, chính sách, nguồn lực, tận dụng sự hợp tác, hỗ trợ của các tổ chức quốc tế thông qua các dự án để dành nguồn lực cho việc hỗ trợ, triển khai chương trình này.