Trong 10 năm qua, Bộ NN-PTNT đã trình Chính phủ cũng như ban hàng hàng loạt nghị định, quyết định cũng như ban hành định mức kinh tế, kỹ thuật áp dụng trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công, thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
Đặc biệt, Bộ NN-PTNT rà soát các khoản phí và lệ phí. Trong đó, lĩnh vực thú y đề nghị bãi bỏ 14 mục lệ phí và 21 mục phí. Lĩnh vực nông lâm thủy sản đề nghị bãi bỏ 59 danh mục, 554 danh mục phí chuyển sang cơ chế giá, 01 danh mục đề nghị sửa đổi, 136 danh mục tiếp tục thực hiện. Bổ sung 30 danh mục phí theo các Luật mới ban hành và tổng hợp 18 danh mục phí đề nghị vào dự thảo Dự án Luật phí, lệ phí.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, từ 91 danh mục lệ phí giảm xuống còn 36 danh mục lệ phí và tổng hợp thành 5 danh mục lệ phí đề nghị đưa vào các dự thảo Dự án Luật phí, lệ phí.
Bộ NN-PTNT đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành 11 Thông tư quy định mức thu, chế độ thu nộp và quản lý, sử dụng lệ phí và giá trong ngành NN-PTNT. Trên cơ sở đó, Bộ đã chỉ đạo các cơ quan quản lý chuyên ngành tổ chức thực hiện đồng bộ, minh bạch các quy định mới về phí, lệ phí và giá trong kiểm tra chuyên ngành theo các Thông tư của Bộ Tài chính.
Để thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thời gian qua, Ban cán sự đảng Bộ, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT đã ban hành theo thẩm quyền nhiều văn bản về đổi mới hoạt động đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có nội dung liên quan đến đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ thuộc Bộ.
Bộ NN-PTNT có 11 Viện thuộc thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ, trong đó 11/11 Viện đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt là đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên. Tổng số đơn vị được phân loại tự chủ tài chính giai đoạn 2018-2020 là 11 Viện trực thuộc Bộ, trong đó, 6 tổ chức là đơn vị dự toán cấp 2 trực thuộc Bộ và 64 tổ chức là đơn vị dự toán cấp 3 thuộc Bộ. Cụ thể, có 01 tổ chức tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, 02 tổ chức tự bảo đảm chi thường xuyên và 67 tổ chức tự bảo đảm một phần chi thường xuyên.
Bộ đã ban hành các văn bản theo thẩm quyền để phân cấp, ủy quyền tối đa cho các tổ chức khoa học công nghệ, thủ trưởng các tổ chức khoa học công nghệ trực thuộc Bộ về công tác tổ chức bộ máy, quản lý nhân sự đảm bảo nguyên tắc phù hợp với quy định pháp luật, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Viện và các tổ chức khoa học công nghệ thuộc Bộ chủ động tổ chức thực hiện nhiệm vụ, tiết kiệm nguồn lực và thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thường xuyên hoàn thiện cơ chế vận hành, cơ chế quản lý, phối hợp công tác và cơ chế giám sát, kiểm tra thực hiện. Hiện Bộ đang rà soát để ban hành quy định về quản lý các hoạt động khoa học công nghệ của Bộ, trong đó tiếp tục điều chỉnh phân cấp, ủy quyền cho tổ chức, người đứng đầu tổ chức khoa học công nghệ thuộc Bộ.