Tăng trưởng ổn định trong tình hình dịch bệnh
Năm 2020, ngành nuôi trồng thuỷ sản nước ta đối diện với nhiều khó khăn và thách thức. Dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 kéo dài ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống và hoạt động thương mại toàn cầu.
Hoạt động xuất khẩu bị gián đoạn do đóng cửa biên giới, hàng loạt các nhà hàng ăn nhanh ở những quốc gia nhập khẩu chính bị đóng cửa, vận tải biển bị ngưng trệ, một số đơn hàng bị hủy hoặc lùi thời gian giao hàng, một số khách hàng từ chối thực hiện đơn hàng mới, thiếu hụt lao động tạm thời.
Bên cạnh đó, diễn biến thời tiết phức tạp, thất thường, hạn mặn khốc liệt, kéo dài ở Đồng bằng sông Cửu Long khiến người nuôi khó thả giống vụ mới, cá nuôi bị bệnh, chết là nguyên nhân dễ gây ra dịch bệnh cho thuỷ sản nuôi, ảnh hưởng sản xuất nuôi trồng thủy sản.
Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thủy sản các đối tượng có giá trị kinh tế như cá nước lạnh, tôm hùm, ốc hương… cũng giảm, do các đối tượng này chủ yếu phục vụ nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ trong các nhà hàng.
Sự cạnh tranh từ các nước như Ấn Độ, Ecuador đều tăng cường nuôi tôm nguyên liệu để cung ứng ra thị trường thế giới; Trung Quốc mở rộng diện tích nuôi cá, tự cung ứng nguồn nhiên liệu trong nước, thậm chí phục vụ xuất khẩu làm tăng khả năng cạnh tranh với cá tra Việt Nam. Các rào cản kỹ thuật của một số nước nhập khẩu ảnh hưởng đến sản xuất thủy sản.
Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), năm 2020, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản duy trì ổn định khoảng 1,3 triệu ha (diện tích nuôi mặn lợ đạt 850 nghìn ha, nuôi nước ngọt đạt 450 nghìn ha). Tổng sản lượng thuỷ sản đạt 8,4 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 4,56 triệu tấn, tăng 1,5%, kim ngạch xuất khẩu thủy sản ước đạt 8,4 tỷ USD.
Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trong năm 2020 đạt khoảng 1,3 triệu ha (bằng 100% so với cùng kỳ 2019) và khoảng 10 triệu mỏ lồng.
Tổng sản lượng nuôi đạt 4,56 triệu tấn (tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2019). Trong đó, tôm đạt 950.000 tấn (tôm sú: 267,7 nghìn tấn, tăng 1%; tôm chân trắng là 632,3 nghìn tấn, tăng 8,5%, tôm khác 50.000 tấn), cá tra 1,56 triệu tấn (bằng 96,9% so với cùng kỳ), nuôi biển tăng trưởng tốt, sản lượng đạt 600 nghìn tấn (cá biển 38 nghìn tấn; nhuyễn thể 375 nghìn tấn; tôm hùm 2,1 nghìn tấn, rong biển 120 nghìn tấn; còn lại là cua biển và các đối tượng nuôi khác), cá nước lạnh đạt 3.720 tấn.
Sản xuất tôm nước lợ, cá tra các tháng đầu năm 2020 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và xâm nhập mặn dẫn đến sản lượng bị sụt giảm. Các tháng cuối năm 2020, sản xuất tôm, cá tra đã có sự phục hồi khi tình hình dịch bệnh được khống chế, sự hồi phục của các thị trường nhập khẩu và nỗ lực của người nuôi, doanh nghiệp đã giúp cho sản lượng tôm nước lợ tăng trưởng khá, tổng sản lượng vượt kế hoạch năm 2020, cá tra cũng đã có những chuyển biến tích cực. Sản xuất cá nước lạnh (cá hồi, cá tầm), cá biển đang phát triển tốt.
Rong biển hiện đang có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển sản xuất. Tổng cục Thuỷ sản đã tham mưu lãnh đạo Bộ NN-PTNT chỉ đạo vùng giữ rong giống tại Cà Ná, Thuận Nam và cơ sở phát triển công nghệ chế biến rong biển Sơn Hải tại Suối Đá, Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận để tăng cường công tác nghiên cứu, phát triển sản xuất trong giống cung cấp cho người trồng rong và kết nối tiêu thụ sản phẩm.
5 vấn đề nổi cộm
Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến, trong giai đoạn 2021 - 2025 đến năm 2030, Việt Nam đã và đang thực hiện 14 Nghị định FTA thế hệ mới, trong đó đặc biệt EVFTA là thị trường rất lớn cho thủy sản.
Tuy nhiên Việt Nam cũng đứng trước khó khăn, thách thức rất lớn là những rào cản và quy định bảo hộ. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định, đây là những vấn đề mà ta phải vượt lên thì mới có thể tăng tốc xuất khẩu.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT đánh giá thực trạng của ngành thủy sản nói chung và nuôi trồng nói riêng hiện nay là hạ tầng thủy sản rất yếu kém. Cả hạ tầng khai khác và hạ tầng vùng nuôi lâu nay không được đầu tư dẫn đến nguy cơ trong quản lý an toàn sinh học và an toàn dịch bệnh.
“Ngoài ra quy mô sản xuất của 7,5 triệu hộ nông dân và 8,6 triệu thửa ruộng, ao chuồng đều rất nhỏ lẻ. Có thể nói tình hình dịch bệnh và an toàn sinh học đang là những vấn đề rất khó khan”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Lãnh đạo Bộ NN-PTNT cho rằng để thực hiện mục tiêu trong chiến lược phát triển thủy sản giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2045 thì Việt Nam cần thực hiện đồng bộ tất cả các giải pháp từ đầu tư hạ tầng cho đến giống, thức ăn dinh dưỡng, chế phẩm sinh học, quy trình nuôi và đặc biệt là thú y phòng bệnh. Nếu để xảy ra dịch bệnh sẽ dẫn đến việc các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật không đạt, chất lượng kém và giá thành cao.
Thứ trưởng Tiến cũng chỉ ra rằng với diện tích nuôi trồng 1,3 triệu ha hằng năm, với sản lượng 7 triệu tấn sắp tới đây, nếu không có nhận thức đúng đắn, không có kế hoạch hành động thì ngành thủy sản sẽ rất khó khăn. Để giải quyết tốt công tác thú y phòng bệnh thì không chỉ độc lập mỗi thú y phòng bệnh mà còn nhiều yếu tố khác. Theo đó, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã chỉ ra 5 vấn đề nổi cộm của ngành thủy sản hiện nay.
Thứ nhất, vì động vật dưới nước có đặc điểm riêng nên quan trắc môi trường và giám sát dịch bệnh phải có sự phối hợp với nhau. Đây là 2 khía cạnh độc lập nhưng lại liên kết rất chặt chẽ.
"Cục Thú y và Tổng Cục thủy sản phải chia sẻ về số liệu để có những nghiên cứu đánh giá về tương quan các tiêu chí với phần dịch bệnh để có những cảnh báo. Để mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng và xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh, giảm giá thành”, Thứ trưởng yêu cầu.
Thứ hai là công tác giống. Giống không những quyết định năng suất, chất lượng mà còn có cả sức kháng bệnh. Thứ trưởng lấy ví dụ có những giống ta phải mua với giá rất đắt là vì sức kháng bệnh tốt sẽ mang lại năng suất cao. Chính sức miễn kháng và sạch bệnh làm cho con giống sinh sản, sinh trưởng tốt, tiêu tốn ít thức ăn.
“Thứ ba là thức ăn thủy sản. Cho đến nay, 1,923 triệu tấn thức ăn thủy sản thì chỉ duy nhất có 1 doanh nghiệp trong nước sản xuất 234.000 tấn, còn cơ bản 1,9 triệu tấn là của doanh nghiệp nước ngoài. Thế nhưng không phải doanh nghiệp nước ngoài đã là chuẩn. Tổng cục Thủy sản vẫn phải rà soát kiểm tra”, lãnh đạo Bộ NN-PTNT đề nghị.
Vấn đề thứ tư hiện nay là cần phải có danh mục chế phẩm sinh học dùng cho nuôi trồng thủy sản. Để từ đó rà soát và loại bỏ bớt, kết hợp phương thức nuôi, thiết bị nuôi, quy trình nuôi.
“Thứ năm là vấn đề hạ tầng. Sắp tới chúng ta sẽ đầu tư hạ tầng và các cơ sở sản xuất giống. Ngoài ngân sách Trung ương, vốn vay World Bank thì ngân sách của địa phương cũng sẽ đầu tư vào. Vấn đề này cần phải được giải quyết một cách đồng bộ”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho hay.
“Thú y phòng bệnh rất quan trọng. Đó là giải pháp hàng đầu để thủy sản đạt được sản lượng 7 triệu tấn. Ta phải xác định phòng hơn chống vì một khi đã phải đưa kháng sinh, đưa thuốc vào là tốc độ tăng trưởng giảm, là tiêu tốn thức ăn cao, là mất an toàn thực phẩm, không còn sức cạnh tranh.
Chúng ta phải ra được một quy trình an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh cho từng đối tượng thủy sản để hướng dẫn doanh nghiệp, xây dựng những mô hình và thông tin tuyên truyền rộng rãi”, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến.