Những đại biểu này là lãnh đạo Bộ Nông nghiệp các nước ASEAN, khách mời cấp cao từ các nước trong khu vực Châu Á, các DN nội khối ASEAN và các tập đoàn đa quốc gia có vốn đầu tư trong ngành nông nghiệp tại ASEAN, các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cùng các đại biểu tại Diễn đàn Tăng trưởng Châu Á |
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng, kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm vai trò rất quan trọng tại nhiều quốc gia, do đó Tầm nhìn mới trong nông nghiệp là “trúng”. Để cụ thể hóa tầm nhìn này, từ năm 2010 Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước và khối tư nhân thông qua các Nhóm công tác Đối tác công tư (PPP) ngành hàng trong Đối tác phát triển nông nghiệp bền vững Việt Nam (PSAV), hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam.
Đến nay, PSAV đang triển khai thành công 7 Nhóm công tác PPP ngành hàng: cà phê; chè; rau quả; thủy sản; hồ tiêu và gia vị; lúa gạo và hóa chất nông nghiệp. “WEF đã giúp Việt Nam giới thiệu, tiến cử các tập đoàn lớn, các DN phối kết hợp giữa Chính phủ với người dân và doanh nhân. Trên 7 nhóm ngành hàng, cho đến nay qua gần 10 năm chúng tôi đánh giá bước đầu rất tốt ở chỗ: Thứ nhất, khai thác được tiềm lực về mặt tư bản; thứ hai tổ chức quản trị một cách chặt chẽ; thứ ba, nâng cao được thu nhập cho người dân, đặc biệt tạo ra chuỗi nông sản theo ý đồ chúng ta mong muốn là sạch, hiệu quả, phân phối lợi ích đều giữa người nông dân, DN”, Bộ trưởng khẳng định.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường dẫn chứng với hai mô hình hợp tác công – tư do Néstle và Unilever phối hợp thực hiện, Việt Nam đã xây dựng 2 nhóm ngành hàng cà phê và chè rất có hiệu quả. Đối với chuỗi ngành hàng cà phê do Néstle làm hạt nhân hỗ trợ, qua 7 năm đã hình thành được những vùng sản xuất nguyên liệu và người nông dân đã học được kỹ thuật canh tác làm sao để năng suất cao, làm sao cho môi trường tốt, để hiệu quả cuối cùng cao nhất.
Với cây chè, Bộ trưởng đánh giá Unilever cũng là một trong những thành tố hạt nhân phối kết hợp rất tốt cùng các DN Việt Nam. Như ở Tuyên Quang, mô hình hợp tác công – tư đã khẳng định hiệu quả kinh tế rõ nét, trụ cột thứ hai là môi trường, hầu hết quản lý về thuốc BVTV ở những khu vực này rất tốt, giảm đáng kể việc dùng hóa chất nhưng lại tăng được năng suất, hiệu quả.